Nhảy đến nội dung
x

GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH HỌC PHẦN 1

LỜI NÓI ĐẦU

Thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng và an ninh trong tình hình mới; Nghị định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10/7/2007 về giáo dục quốc phòng và an ninh; Chỉ thị số 57/2007/CT-BGDĐT ngày 04/10/2007của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về tăng cường công tác giáo dục quốc phòng và an ninh trong ngành giáo dục.

Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh, Trường Đại học Tôn Đức Thắng đã dựa vào nội dung Giáo trình Giáo dục quốc phòng và an ninh, Tập 1 (dùng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng), Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2008; kết hợp nghiên cứu các tài liệu tham khảo, tổ chức biên soạn cuốn “Giáo trình Giáo dục quốc phòng và an ninh Học phần 1 và Học phần 2” lưu hành nội bộ, dùng cho sinh viên đại học, cao đẳng. Nội dung, chương trình đã được cập nhật theo Thông tư số 05/2020/TT-BGDĐT ngày 18/3/2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Giáo trình được chia thành 2 phần, cụ thể:

Học phần I: Đường lối quốc phòng và an ninh của Đảng Cộng sản Việt Nam

Nội dung viết về đối tượng, phương pháp nghiên cứu môn học giáo dục quốc phòng và an ninh; những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ tổ quốc; quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh; những vấn đề cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam; xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia; xây dung lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc phòng; xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc và những vấn đề cơ bản về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật, an toàn xã hội.

Học phần II: Công tác quốc phòng và an ninh

Nội dung viết về phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; phòng chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo; phòng chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; phòng chống một số loại tội phạm xâm hại danh dự nhân phẩm của người khác; an toàn thông tin và phòng chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng; an ninh phi truyền thống và các mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam.

Tuy vậy, quá trình biên soạn không tránh khỏi những thiếu sót, tập thể tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy, cô và sinh viên để tiếp tục bổ sung ngày càng hoàn thiện hơn. Các ý kiến đóng góp xin gửi về Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh, Trường Đại học Tôn Đức Thắng, địa chỉ: số 19, đường Nguyễn Hữu Thọ, phường Tân Phong, quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

Xin chân thành cảm ơn!

 

TẬP THỂ BIÊN SOẠN

 

.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

HỌC PHẦN 1

ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

------------------------------
.

 

 

Bài 1

ĐỐI TƯỢNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

MÔN HỌC GIÁO DỤC QUỐC PHÒNGAN NINH

--------------------

I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

1. Nghiên cứu đường lối quốc phòng và an ninh của Đảng Cộng sản Việt Nam

Nghiên cứu những quan điểm cơ bản có tính lý luận của Đảng về đường lối quốc phòng và an ninh gồm: Học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc; quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng tòan dân, an ninh nhân dân; chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh; một số nội dung cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam; xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia; xây dưng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và những vấn đề cơ bản về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Trên cơ sở lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc, Đảng đã đề ra chủ trương, đường lối chiến lược xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Các quan điểm của Đảng về quốc phòng và an ninh có tính kế thừa và phát triển những truyền thống quân sự độc đáo của dân tộc “cả nước một lòng chung sức đánh giặc”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu chống mạnh”, đó cũng chính là đặc trưng nghệ thuật quân sự Việt Nam đã đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Các quan điểm của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã bám sát thực tiễn, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị, kinh tế phát triển, an ninh trật tự bảo đảm, hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế nước ta ngày càng cao trên thế giới.

2. Nghiên cứu về công tác quốc phòng và an ninh

Bao gồm nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chiến lược “diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam; một số vấn đề về dân tộc, tôn giáo và đấu tranh phòng chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; phòng chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; phòng chống một số loại tội phạm xâm hại danh dự, nhân phẩm của người khác; an toàn thông tin và phòng chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng; an ninh phi truyền thống và các mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam.

Nghiên cứu về công tác quốc phòng an ninh thực chất là nghiên cứu hệ thống quy phạm pháp luật của Nhà nước về bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và an ninh chính trị. Mọi công dân đều có trách nhiệm tham gia công tác quốc phòng an ninh, luyện tập quân sự, bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Nghiên cứu và thực hiện tốt công tác quốc phòngan ninh để xây dựng lòng tin chiến thắng trước mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam.

3. Nghiên cứu quân sự chung

Nghiên cứu các chế độ sinh hoạt, học tập, công tác trong ngày, trong tuần; các chế độ xây dưng nền nếp chính quy, bố trí trật tự nội vụ trong doanh trại; hiểu biết chung về các quân, binh chủng trong Quân đội nhân dân Việt Nam; điều lệnh đội ngũ từng người có súng; điều lệnh đội ngũ đơn vị; hiểu biết chung về bản đồ địa hình quân sự; phòng tránh địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao và ba môn quân sự phối hợp.

4. Nghiên cứu kỹ thuật chiến đấu bộ binh và chiến thuật

Nghiên cứu những kỹ năng cơ bản về kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK; tính năng, cấu tạo và cách sử dụng một số loại lựu đạn thường dùng; ném lựu đạn xa trúng đích; từng người trong chiến đấu tiến công, từng người trong chiến đấu phòng ngự và từng người làm nhiệm vụ canh gác, cảnh giới

Kiến thức về quân sự trong môn học là những kiến thức phổ thông, sinh viên cần quan tâm nghiên cứu đặc điểm, nguyên lý cấu tạo, tính năng, tác dụng...; hiểu rõ bản chất các nội dung kỹ, chiến thuật bộ binh và các phương pháp thực hiện, phòng tránh đơn giản sát với thực tế. Đồng thời làm cơ sở để ứng dụng khi tham gia dân quân quân tự vệ.

II. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Cơ sở phương pháp luận

Cơ sở phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu bộ môn này là học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, các vấn đề về chiến tranh, xây dựng nền quốc phòng tòan dân… là nền tảng thế giới quan, nhận thức luận của sự nghiên cứu, vận dụng đường lối quân sự của Đảng và những vấn đề khác của giáo dục quốc phòng và an ninh.

Quá trình nghiên cứu, phát triển giáo dục quốc phòng và an ninh phải nắm vững và vận dụng đúng đắn các quan điểm khoa học sau đây:

- Quan điểm hệ thống: Đặt ra yêu cầu nghiên cứu, phát triển các nội dung cùa giáo dục quốc phòng và an ninh một cách toàn diện, tổng thể trong mối quan hệ phát triển giữa các bộ phận, các vấn đề của môn học.

- Quan điểm lịch sử, logic: Trong nghiên cứu, phải nhìn thấy sự phát triển của đối tượng, vấn đề nghiên cứu theo thời gian, không gian với những điều kiện lịch sử, cụ thể để từ đó giúp ta phát hiện, khái quát, nhận thức đúng những quy luật, nguyên tắc của hoạt động quốc phòng và an ninh.

- Quan điểm thực tiễn

Phải bám sát thực tiễn xây dựng quân đội nhân dân, công an nhân dân và xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.

2. Các phương pháp nghiên cứu

Là một bộ môn khoa học nằm trong hệ thống khoa học quân sự, phạm vi nghiên cứu rất rộng, nội dung nghiên cứu đa dạng, được cấu trúc theo hệ thống từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp và luôn có sự kế thừa, phát triển. Vì vậy khi tiếp cận nghiên cứu phải được vận dụng với nhiều phương pháp, cách thức, phù hợp với tính chất của từng nội dung và vấn đề nghiên cứu cụ thể.

- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: gồm phân tích, tổng hợp, phân lọai, hệ thống hóa, mô hình hóa, giả thuyết…nhằm thu thập thông tin trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu về quốc phòng và an ninh để rút ra kết luận cần thiết.

- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: gồm quan sát điều tra, khảo sát thực tế, nghiên cứu các sản phẩm quốc phòng và an ninh, tổng kết kinh nghiệm, thí nghiệm, thực nghiệm… nhằm tác động trực tiếp vào đối tượng trong thực tiễn từ đó khái quát bản chất, quy luật họat động của quốc phòng và an ninh không ngừng bổ sung cũng như kiểm định tính đúng đắn của nội dung giáo dục quốc phòng và an ninh.

- Phương pháp nghiên cứu lĩnh hội các kiến thức kỹ năng: gồm phương pháp dạy học lý thuyết và thực hành nhằm đảm bảo cho sinh viên nắm được đường lối, nghệ thuật quân sự, nắm lý thuyết kỹ thuật và chiến thuật rèn luyện các kỹ năng thao tác, hành động quân sự. Cần chú ý sử dụng phương pháp tạo tình huống, nêu vấn đề, tranh luận sáng tạo tăng cường thực hành rèn luyện sát thực tế chiến đấu. Tổ chức tham quan, viết thu họach, tiểu luận, sử dụng các phương tiện khoa kỹ thuật hiện đại phục vụ trong giảng dạy nâng cao chất lượng học tập.

III. GIỚI THIỆU VỀ MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

1. Đặc điểm môn học

- Là môn học được luật định, thể hiện rõ đường lối giáo dục của Đảng được thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Có sự kế tục và phát huy kết quả thực hiện chương trình huấn luyện quân sự phổ thông (1961), giáo dục quốc phòng(1991), quy chế giáo dục đào tạo trình độ đại học (2000) và nghị định của chính phủ về giáo dục quốc phòng năm 2007.

- Là môn học bao gồm kiến thức khoa học xã hội, nhân văn, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật quân sự có t lệ lý thuyết chiếm trên 70% chương trình.

- Giáo dục quốc phòng góp phần xây dựng, rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong khoa học ngay khi sinh viên đang học tập tại trường và khi ra công tác, góp phần đào tạo cho đất nước đội ngũ cán bộ có ý thức, năng lực sẵn sàng tham gia nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên mọi cương vị công tác.

2. Chương trình

Theo Thông tư số: 05/2020/TT-BGDĐT ngày 18 tháng 3 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, chương trình giáo dục quốc phòng và an ninh gồm 4 học phần, thời lượng 165 tiết, cụ thể:

Học phần I: Đường lối quốc phòng và an ninh của Đảng (3 tín chỉ = 45 tiết)

Học phần II: Công tác quốc phòngan ninh (2 tín chỉ = 30 tiết)

Học phần III: Quân sự chung (1 tín chỉ = 30 tiết)

Học phần IV: Kỹ thuật chiến đấu bộ binh và chiến thuật (2 tín chỉ = 60 tiết)

3. Tổ chức dạy học và đánh giá kết quả học tập

a) Tổ chức dạy học

Theo Quyết định số 161/QĐ-TTg  ngày 30/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt quy hoạch Hệ thống Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh giai đoạn 2015 - 2020 và những năm tiếp theo; Quyết định số 1841/QĐ-TTg  ngày 18/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ về Bổ sung quy hoạch Hệ thống Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh thời kỳ 2021 - 2031, tầm nhìn đến năm 2050: các trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh sinh viên; các trung tâm thuộc các trường quân sự quân khu, tỉnh, thành phố; các khoa, tổ bộ môn trong các trường đại học, cao đẳng có đủ điều kiện.

b) Đánh giá kết quả

- Sinh viên chấp hành nghiêm kỷ luật trong quá trình học và phải đảm bảo tối thiểu 80% thời lượng học tập trên lớp đối với tất cả các học phần, hoàn thành nghĩa vụ học phí theo quy định.

- Kết quả đánh giá các học phần không tính vào điểm trung bình chung học kỳ, năm học, điểm chung bình chung tích lũy, xếp loại tốt nghiệp nhưng là một trong các điều kiện để xét hoàn thành khối lượng học tập, xét học bổng, xét tốt nghiệp và được ghi vào bảng điểm cấp kèm theo bằng tốt nghiệp.

4. Đối tượng được min, giảm, tạm hoãn môn học giáo dục quốc phòng và an ninh

Thông tư liên tịch số 18/2015/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Bộ Giáo dục và Đào tạo Quy định tổ chức dạy, học và đánh giá kết quả học tập môn học Giáo dục quốc phòng và an ninh trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học, cụ thể như sau:

a) Đối tượng được miễn học môn học Giáo dục quốc phòng và an ninh:

- Học sinh, sinh viên có giấy chứng nhận sĩ quan dự bị hoặc bằng tốt nghiệp do các trường quân đội, công an cấp.

- Học sinh, sinh viên đã có chứng chỉ Giáo dục quốc phòng và an ninh tương ứng với trình độ đào tạo.

- Học sinh, sinh viên là người nước ngoài.

b) Đối tượng được miễn học, miễn thi học phần, nội dung trong chương trình GDQP&AN, gồm: học sinh, sinh viên có giấy xác nhận kết quả học tập các học phần, nội dung đó đạt từ 5 điểm trở lên theo thang điểm 10.

c) Đối tượng được miễn học, các nội dung thực hành kỹ năng quân sự:

- Học sinh, sinh viên là người khuyết tật, có giấy xác nhận khuyết tật theo quy định của pháp luật về người khuyết tật.

- Học sinh, sinh viên không đủ sức khỏe về thể lực hoặc mắc những bệnh lý thuộc diện miễn làm nghĩa vụ quân sự theo quy định hiện hành.

- Học sinh, sinh viên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, công an nhân dân.

d) Đối tượng được tạm hoãn học môn học Giáo dục quốc phòng và an ninh:

- Học sinh, sinh viên vì lý do sức khỏe phải dừng học trong thời gian dài để điều trị, phải có giấy xác nhận của bệnh viện nơi học sinh, sinh viên điều trị.

- Học sinh, sinh viên là nữ đang mang thai hoặc trong thời gian nghỉ chế độ thai sản theo quy định hiện hành.

Giám đốc, hiệu trưởng các cơ sở giáo dục xem xét miễn, giảm, tạm hoãn môn học Giáo dục quốc phòng và an ninh cho các đối tượng theo quy định của thông tư này. Hết thời gian tạm hoãn, các cơ sở giáo dục bố trí cho học sinh, sinh viên vào học các lớp phù hợp để hoàn thành chương trình.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Vì sao sinh viên phải học Môn học Giáo dục quốc phòng và an ninh?

2. Đối tượng nghiên cứu của Môn học giáo dục quốc phòng và an ninh?

3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của môn học?

 

Bài 2

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN,

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH,

QUÂN ĐỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

--------------------

 

I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh

a) Chiến tranh là một hiện tượng chính trị-xã hội

- Các quan điểm trước C.Mác: Có nhiều nhà tư tưởng đã đề cập đến vấn đề này song nổi bật nhất là tư tưởng của C.Ph.Claudơvít (1780 - 1831), ông quan niệm chiến tranh là một hành vi bạo lực dùng để buộc đối phương phục tùng ý chí của mình. Chiến tranh là sự huy động sức mạnh không hạn độ, sức mạnh đến tột cùng của các bên tham chiến. Tuy nhiên, Claudơvít chỉ ra được đặc trưng của chiến tranh là sử dụng bạo lực mà chưa luận giải được bản chất của hành vi bạo lực ấy.

- Các nhà kinh điển của chủ nghĩa C.Mác: Chiến tranh là hiện tượng chính trị xã hội mang tính lịch sử, đó là cuộc đấu tranh vũ trang có tổ chức giữa các giai cấp, Nhà nước (hoặc liên minh giữa các nước) nhằm đạt được mục đích chính trị nhất định.

- Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin: Chiến tranh là kết quả của những quan hệ giữa người với người trong xã hội. Nhưng nó không phải là những mối quan hệ giữa người với người nói chung, mà là mối quan hệ giữa những tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau, được thể hiện dưới một hình thức đặc biệt, sử dụng một công cụ đặc biệt đó là bạo lực vũ trang.

b) Nguồn gốc nảy sinh chiến tranh

- Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: sự xuất hiện và tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là nguồn gốc sâu xa (nguồn gốc kinh tế), suy đến cùng đã dẫn đến sự xuất hiện, tồn tại của chiến tranh. Đồng thời sự xuất hiện và tồn tại của giai cấp và đối kháng giai cấp là nguồn gốc trực tiếp (nguồn gốc xã hội) dẫn đến sự xuất hiện, tồn tại của chiến tranh.

Trong chế độ cộng sản nguyên thủy, khi chưa có chế độ tư hữu, chưa có giai cấp đối kháng thì chiến tranh với tính cách là một hiện tượng chính trị xã hội cũng chưa xuất hiện. Mặc dù thời kỳ này đã có những cuộc xung đột vũ trang, nhưng không phải là những cuộc chiến tranh mà chỉ là một dạng “lao động thời cổ”. Bởi vì, xã hội cộng sản nguyên thủy là một xã hội bình đẳng, không có giai cấp, không có tình trạng phân chia thành kẻ giàu, người nghèo, kẻ đi áp bức bóc lột và người bị áp bức bóc lột. Về kinh tế không có của “dư thừa tương đối” để người này có thể chiếm đoạt lao động của người khác, mục tiêu của xung đột đó chỉ để tranh giành các điều kiện tự nhiên để tồn tại như: nguồn nước, bãi cò, vùng săn, bắt, hái lượm hoặc hang động...Về mặt quân sự, trong các cuộc xung đột, các bên tham chiến đều không có lực lượng vũ trang chuyên nghiệp, không có vũ khí chuyên dùng. Các cuộc xung đột này mang tính ngẫu nhiên.

Khi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất xuất hiện và cùng với nó là sự ra đời của giai cấp, tầng lớp áp bức bóc lột thì chiến tranh ra đời và tồn tại như một tất yếu khách quan. Chế độ áp bức càng hoàn thiện thì chiến tranh càng phát triển. Chiến tranh trở thành “bạn đường” của mọi chế độ tư hữu.

- Phát triển những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về chiến tranh trong điều kiện lịch sử mới, V.I.Lênin chỉ rõ: “Trong thời đại ngày nay còn chủ nghĩa đế quốc còn nguy cơ xảy ra chiến tranh, chiến tranh là bạn đường của chủ nghĩa đế quốc.

Như vậy, chiến tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, có đối kháng giai cấp và áp bức bóc lột, chiến tranh không phải là một định mệnh gắn liền với con người và xã hội loài người. Muốn xoá bỏ chiến tranh phải xoá bỏ nguồn gốc sinh ra nó.

c) Bản chất chiến tranh

Bản chất chiến tranh là một trong những nội dung cơ bản, quan trọng nhất của học thuyết Mác-Lênin về chiến tranh, quân đội. Theo V.I.Lênin: “Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng những biện pháp khác” (cụ thể là bằng bạo lực). Khi phân tích bản chất chiến tranh, nhất thiết phải có quan điểm chính trị - giai cấp, coi chiến tranh chỉ là một hiện tượng lịch sử cụ thể.

- Chính trị là sự phản ánh tập trung của kinh tế, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, là sự thống nhất giữa đường lối đối nội và đường lối đối ngoại, trong đó đường lối đối ngoại phụ thuộc vào đường lối đối nội. Chiến tranh chỉ là một thời đoạn, một bộ phận của chính trị, nó không làm gián đoạn chính trị. Ngược lại, mọi chức năng, nhiệm vụ của chính trị đều được thực hiện trong chiến tranh.

- Giữa chiến tranh và chính trị có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó chính trị chi phối và quyết định toàn bộ tiến trình và kết cục chiến tranh, chính trị chỉ đạo toàn bộ hoặc phần lớn tiến trình và kết cục chiến tranh, chính trị quy định mục tiêu và điều chỉnh mục tiêu, hình thức tiến hành đấu tranh vũ trang. Chính trị không chỉ kiểm tra toàn bộ quá trình tác chiến, mà còn sử dụng kết quả sau chiến tranh để đề ra nhiệm vụ, những mục tiêu mới cho giai cấp, cho xã hội trên cơ sở thắng lợi hay thất bại của chiến tranh.

- Chiến tranh là một bộ phận, một phương tiện của chính trị, là kết quả phản ánh những cố gắng cao nhất của chính trị. Chiến tranh tác động trở lại chính trị theo hai hướng tích cực hoặc tiêu cực, hoặc tích cực ở khâu này nhưng tiêu cực ở khâu khác. Chiến tranh có thể làm thay đổi đường lối, chính sách, nhiệm vụ cụ thể, thậm chí có thể làm thay đổi cả thành phần của lực lượng lãnh đạo chính trị của các bên tham chiến. Chiến tranh tác động lên chính trị thông qua việc làm thay đổi tình hình xã hội, làm phức tạp hóa các mối quan hệ và làm tăng thêm những mâu thuẫn vốn có trong xã hội đối kháng giai cấp. Chiến tranh có thể đẩy nhanh sự chín muồi của cách mạng hoặc làm mất đi tình thế cách mạng. Chiến tranh kiểm tra sức sống của toàn bộ chế độ chính trị xã hội.

- Trong thời đại ngày nay, chiến tranh có những thay đổi về phương thức tác chiến, vũ khí trang bị nhưng bản chất chiến tranh vẫn không có gì thay đổi, chiến tranh vẫn là sự tiếp tục chính trị của các nhà nước và giai cấp nhất định.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh

- Trên cơ sở lập trường duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh đã sớm đánh giá đúng đắn bản chất, quy luật của chiến tranh, tác động của chiến tranh đến đời sống xã hội.

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cuộc chiến tranh do thực dân Pháp tiến hành ở nước ta là cuộc chiến tranh xâm lược. Ngược lại cuộc chiến tranh của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược là cuộc chiến tranh nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền và thống nhất đất nước.

- Hồ Chí Minh đã xác định tính chất xã hội của chiến tranh, phân tích tính chất chính trị-xã hội của chiến tranh xâm lược thuộc địa, chiến tranh ăn cướp của chủ nghĩa đế quốc, chỉ ra tính chất chính nghĩa của chiến tranh giải phóng dân tộc.

Trên cơ sở mục đích chính trị của chiến tranh, Hồ Chí Minh đã xác định tính chất xã hội của chiến tranh, chiến tranh xâm lược là phi nghĩa, chiến tranh chống xâm lược là chính nghĩa, từ đó xác định thái độ của chúng ta là ủng hộ chiến tranh chính nghĩa, phản đối chiến tranh phi nghĩa

- Hồ Chí Minh khẳng định: Ngày nay chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta là chiến tranh nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi con người là nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh. Vì vậy phải tiến hành chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh được thể hiện rõ trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp ngày 19/12/1946: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, không chia tôn giáo đảng phái, dân tộc... hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước...”. Trong kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Ba mươi mốt triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là ba mươi mốt triệu chiến sỹ anh dũng diệt Mỹ cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng”.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh giặc phải bằng sức mạnh của toàn dân, trong đó phải có lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Kháng chiến toàn dân phải đi đôi với kháng chiến toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đánh địch trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị; kinh tế; văn hóa…

II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUÂN ĐỘI

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quân đội

Theo Ph.Ăngghen: “Quân đội là một tập đoàn người vũ trang, có tổ chức do nhà nước xây dựng để dùng vào cuộc chiến tranh tiến công hoặc chiến tranh phòng ngự”.

Như vậy, quân đội là một tổ chức của một giai cấp và nhà nước nhất định, là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu nhất, là lực lượng nòng cốt để nhà nước, giai cấp tiến hành chiến tranh và đấu tranh vũ trang. V.I.Lênin nhấn mạnh: chức năng cơ bản của quân đội đế quốc là phương tiện quân sự chủ yếu để đạt mục đích chính trị đối ngoại là tiến hành chiến tranh xâm lược và duy trì quyền thống trị của bọn bóc lột đối với nhân dân lao động trong nước.

a) Nguồn gốc ra đời của quân đội

- Từ khi quân đội xuất hiện đến nay, đã có không ít nhà lý luận đề cập đến nguồn gốc, bản chất của Quân đội trên các khía cạnh khác nhau. Nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin mới lý giải đúng đắn và khoa học về hiện tượng chính trị xã hội đặc thù này.

- Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc ra đời của Quân đội từ sự phân tích cơ sở kinh tế-xã hội và khẳng định: quân đội là một hiện tượng lịch sử, ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người, khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Chính chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp đã làm nảy sinh nhà nước thống trị bóc lột. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và đàn áp quần chúng nhân dân lao động, giai cấp thống trị đã tổ chức ra lực lượng vũ trang thường trực làm công cụ bạo lực của nhà nước.

Như vậy chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự phân chia xã hội thành giai cấp đối kháng là nguồn gốc ra đời quân đội. Chừng nào còn chế độ tư hữu, còn chế độ áp bức bóc lột thì quân đội vẫn còn tồn tại. Quân đội chỉ mất đi khi giai cấp, nhà nước và những điều kiện sinh ra nó tiêu vong.

b) Bản chất giai cấp của quân đội

 Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: bản chất quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, nhà nước nhất định nhằm mục đích bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị và nhà nước tổ chức nuôi dưỡng sử dụng nó. Bản chất của quân đội phụ thuộc vào bản chất của nhà nước tổ chức, nuôi dưỡng và xây dựng theo đường lối quan điểm chính trị, quân sự của giai cấp mình. Đó là cơ sở để quân đội trung thành với nhà nước đã tổ chức ra nó.

Bản chất giai cấp của quân đội không phải tự phát hình thành mà phải trải qua quá trình xây dựng lâu dài và được củng cố liên tục. Bản chất quân đội tương đối ổn định nhưng không phải là bất biến. bản chất quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: giai cấp, nhà nước, các lực lượng, tổ chức chính trị, xã hội và việc giải quyết các mối quan hệ nội bộ trong quân đội. Sự thay đi bản chất giai cấp của quân đội diễn ra dần dần thông qua việc tăng cường hoặc suy yếu dần các mối quan hệ.

Hiện nay, luận điểm của các học giả tư sản là “phi chính trị hóa quân đội”, cho quân đội phải đứng ngoài chính trị, quân đội là công cụ bạo lực của toàn xã hội, không mang bản chất giai cấp. Luận điểm “phi chính trị hóa quân đội”, với mục đích làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm giảm sức mạnh chiến đấu, từng bước làm thoái hóa về chính trị tư tưởng, làm phai nhạt bản chất cách mạng của quân đội. “phi chính trị hóa quân đội” là một mục tiêu quan trọng trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc.

c) Sức mạnh chiến đấu của quân đội

- Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ănggen, sức mạnh chiến đấu của quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: con người, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, vũ khí trang bị, khoa học quân sự, huấn luyện, tổ chức biên chế… Bảo vệ và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ănggen, V.I.Lênin đã chỉ rõ sức mạnh chiến đấu của quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, giữa các yếu tố có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó yếu tố chính trị tinh thần giữ vai trò quyết định đến sức mạnh sức mạnh chiến đấu của quân đội. V.I.Lênin đã khẳng định “Trong mọi cuộc chiến tranh rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”.

Nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của V.I.Lênin

- Đảng Cộng sản lãnh đạo Hồng quân tăng cường bản chất giai cấp công nhân.

- Đoàn kết thống nhất quân đội với nhân dân.

- Trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản.

- Xây dựng quân đội ngày càng chính quy.

- Không ngừng hoàn thiện cơ cấu tổ chức.

- Phát triển hài hoà các quân chủng, binh chủng.

- Sẵn sàng chiến đấu.

Trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định sức mạnh, tồn tại, phát triển, chiến đấu, chiến thắng của Hồng quân.

Ngày nay, những nguyên tắc cơ bản về xây dựng quân đội kiểu mới của V.I. Lênin vẫn giữ nguyên giá trị; là cơ sở lý luận khoa học cho các Đảng Cộng sản xác định phương hướng tổ chức xây dựng quân đội của mình.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội

- Khẳng định sự ra đời của quân đội là một tất yếu, là vấn đề có tính quy luật trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữ sự ra đời của quân đội với sự nghiệp giai cấp và giải phóng dân tộc. Kẻ thù sử dụng bạo lực phản cách mạng để áp bức nô dịch dân tộc ta. Muốn giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp cúng ta phải tổ chức bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Hồ Chí Minh viết: “Dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn đánh chúng phải có lực lượng quân sự, phải có tổ chức”.

Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời và trưởng thành của quân đội ta luôn luôn gắn liền với phong trào cách mạng của quần chúng, với các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

- Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân

Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ vũ trang sắc bén của Đảng Cộng sản Việt Nam, mang bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng bản chất giai cấp của Quân đội. Bản chất giai cấp công nhân liên hệ mật thiết với tính nhân dân trong tiến hành chiến tranh nhân dân chống thực dân chống thực dân, đế quốc xâm lược. Trong xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho Quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến giáo dục, nuôi dưỡng các phẩm chất cách mạng, bản lĩnh chính trị và coi đó là cơ sở, nền tảng để xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

- Khẳng định quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu

Đây là một trong những cống hiến của chủ tịch Hồ Chí Minh trong phát triển lý luận về quân đội. Bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của quân đội ta là một thể thống nhất, là biểu hiện tính quy luật của quá trình hình thành và phát triển quân đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản.

Trong bài “Tình đoàn kết quân dân ngày càng thêm bền chặt” ngày 03/3/1952, Hồ Chí Minh viết: “Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân. Đánh giặc để giành lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc, để bảo vệ tự do, hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, quân đội ta không có lợi ích nào khác”.

- Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội là một nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản

Đảng Cộng sản Việt Nam - Tổ chức lãnh đạo giáo dục và rèn luyện quân đội - là nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta. Nếu không có một Đảng Cộng sản chân chính, không có một giai cấp công nhân Việt Nam cách mạng, kiên định lập trường xã hội chủ nghĩa, thì Quân đội nhân dân Việt Nam không thể giữ vững được bản chất giai cấp công nhân, mục tiêu lý tưởng của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Quân đội ta có sức mạnh vộ địch vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục.

- Nhiệm vụ và chức năng cơ bản của quân đội

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Hiện nay quân đội ta có hai nhiệm vụ chính. Một là, xây dựng một quân đội ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu. Hai là, thiết thực tham gia lao động sản xuất góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội”.

Quân đội ta có ba chức năng: là đội quân chiến đấu, là đội quân công tác, là đội quân sản xuất. Ba chức năng này phản ánh cả mặt đối nội, đối ngoại của quân đội.

+ Là đội quân chiến đấu, quân đội luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, tham gia đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng, văn hóa.

+ Là đội quân sản xuất, quân đội tăng gia sản xuất cải thiện đời sống, xây dựng kinh tế, hiện nay quân đội còn là lực lượng nòng cốt và xung kích trong xây dựng kinh tế-quốc phòng ở các địa bàn chiến lược, nhất là ở biên giới, biển, đảo, vùng sâu, vùng xa...

+ Là đội quân công tác, quân đội tham gia tuyên truyền và vận động quần chúng nhân dân xây dựng cơ sở chính trị-xã hội vững mạnh, góp phần xây dựng sự đoàn kết giữa Đảng với nhân dân và quân đội; giúp nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu hộ, cứu nam; tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân hiểu rõ và chấp hành đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, quân đội ta có vai trò hết sức nặng nề. Để thực hiện vai trò đó, cần đỏi mới nhận thức về các chức năng của quân đội cho phù hợp với với sự phát triển của cách mạng trong thời k mới.

III. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

a) Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan

- Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp công nhân, họ phải đẩy lùi sự tấn công của bọn phản cách mạng.

- Xuất phát từ quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cùng với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng được đặt ra một cách trực tiếp, nó trở thành nhiệm vụ chiến lược của các nước xã hội chủ nghĩa, hai nhiệm vụ chiến lược này gắn bó hữu cơ với nhau trong suốt quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.

- Xuất phát từ quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc mà chủ nghĩa xã hội có thể giành thắng lợi không đồng thời ở các nước. Do đó trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là hai chế độ đối lập nhau cùng tồn tại và đấu tranh với nhau hết sức quyết liệt.

- Xuất phát từ bản chất, âm mưu của kẻ thù và thực tiễn cách mạng thế giới. chủ nghĩa xã hội thắng lợi, giai cấp tư sản đã bị đánh đổ về mặt chính trị, nhưng chúng vẫn chưa từ bỏ tham vọng muốn quay trở lại địa vị thống trị đã mất. Chúng tìm mọi cách liên kết với các phần tử phản động trong nước và chủ nghĩa tư bản bên ngoài hòng lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ của giai cấp công nhân. Giành chính quyền đã khó, nhưng giữ được chính quyền còn khó khăn hơn.

b) Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn dân tộc, toàn thể giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

- Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân của giai cấp vô sản trong nước, nhân dân lao động và giai cấp vô sản thế giới có nghĩa vụ ủng hộ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- V.I.Lênin luôn nhắc nhở mọi người phải luôn nêu cao cảnh giác, đánh giá đúng kẻ thù, tuyệt đối không chủ quan, phải có thái độ nghiêm túc đối với quốc phòng và luôn tin tưởng về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. V.I.Lênin đã khẳng định: “Không bao giờ người ta có thể chiến thắng được một dân tộc mà đa số công nhân và nông dân đã biết, đã cảm và trông thấy rằng họ bảo vệ chính quyền của mình, chính quyền xô viết, chính quyền của những người lao động, rằng họ bảo vệ sự nghiệp mà một khi thắng lợi sẽ bảo đảm cho họ có khả năng hưởng thụ mọi thành quả văn hóa, mọi thành quả lao động của con người”.

 c) Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phải thường xuyên tăng cường tiềm lực quốc phòng gắn với phát triển kinh tế-xã hội

- Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp thiêng liêng, cao cả, mang tính cách mạng, chính nghĩa và có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, phải được quan tâm chuẩn bị chu đáo và kiên quyết.

- V.I.Lênin đã đưa ra nhiều biện pháp để bảo vệ Tổ quốc như: củng cố chính quyền xô viết, bài trừ nội phản, tiêu diệt bọn bạch vệ; đẩy mạnh phát triển kinh tế-văn hóa, khoa học kỹ thuật, đối ngoại khôn khéo, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược; hết sức chăm lo xây dựng quân đội kiểu mới.

d) Đảng Cộng sản lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

- Đảng Cộng sản đã lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành chính quyền, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, thì Đảng Cộng sản cũng phải lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

- Đảng phải đề ra chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình, có sáng kiến để lôi kéo quần chúng và phải có đội ngũ đảng viên gương mẫu hy sinh.

- Thực hiện chế độ chính ủy trong quân đội, hướng dẫn, giám sát các hoạt động của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, các đoàn thể nhân dân lao động.

- Sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc cao nhất, là nguồn gốc sức mạnh bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự vận dụng sáng tạo học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin vào tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam.

a) Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan.

- Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được thể hiện rõ qua lời dạy của Hồ Chí Minh: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

- Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô l”. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, trước sự uy hiếp của thực dân đế quốc và bọn phản động tay sai, chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng đề ra nhiều biện pháp thiết thực, cụ thể để giữ vững chính quyền nhân dân chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.

 - Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra một chân lý rằng “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi”, trước khi đi xa, trong bản Di chúc Hồ Chí Minh căn dặn: “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ đến thắng lợi hòan tòan”

b) Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi công dân

- Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công dân Việt Nam. Trong bản tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh khẳng định: “Toàn dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.

- Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên xã hội chủ nghĩa.

c) Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, cả nước, kết hợp với sức mạnh thời đại

- Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm: Phát huy sức mạnh tổng hợp trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đó là sức mạnh của toàn dân tộc, của các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở, là sức mạnh của nhân tố chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá-xã hội, sức mạnh truyền thống với hiện đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

- So sánh về sức mạnh giữa chúng ta với quân xâm lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh phân tích: Chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh đoàn kết toàn dân, có truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới, chúng ta nhất định thắng. Để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân, coi đó là lực lượng chủ chốt để bảo vệ Tổ quốc.

d) Đảng Cộng sản lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

- Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải do Đảng lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Đảng và Chính phủ phải lãnh đạo toàn dân, ra sức củng cố và xây dựng miền Bắc tiến dần lên xã hội chủ nghĩa, đồng thời tiếp tục đấu tranh để thống nhất nước nhà, trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa bình, góp phần bảo vệ công cuộc hòa bình ở Á Đông và trên thế giới”.

- Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc, ngày nay tòan Đảng tòan dân, tòan quân ta đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong giai đọan mới, chúng ta cần làm tốt một số nội dung chiến lược sau:

Một là: Xây dựng tiềm lực toàn diện của đất nước, đặc biệt tiềm lực kinh tế, tạo ra thế và lực cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

Hai là: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh, xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Ba là: Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, chủ động đánh thắng địch trong mọi hoàn cảnh, tình huống chiến tranh.

Bốn là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

KẾT LUẬN

Học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc. Đó là cơ sở lý luận để các Đảng Cộng sản đề ra chủ trương, đường lối chiến lược xây dựng nền quốc phòng và an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trong thời đại ngày nay tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang có nhiều biến đổi và diễn biến phức tạp. Nhưng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc vẫn còn nguyên giá trị. Vì vậy, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

Sinh viên là lớp trí thức trẻ, cần nghiên cứu nhận thức đúng đắn nội dung trên, xây dựng thế giới quan khoa học, niềm tin và trách nhiệm của mình để góp phần tích cực vào bảo vệ, phát triển những nội dung đó trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc, bản chất chiến tranh?

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa?

 

 

 

 

 

Bài 3

XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN

--------------------

 

Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trước hết phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh. Hiện nay, các thế lực thù địch đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy, chúng ta phải nghiên cứu và nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là vấn đề quan trọng, cấp thiết và lâu dài; đồng thời là nghĩa vụ và trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của hệ thống chính trị nước ta.

I. V TRÍ, VAI TRÒ, ĐẶC TRƯNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN

1. Một số khái niệm

- Quốc phòng toàn dân là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, của dân”, phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lưc, tự cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hòa bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực đế quốc, phản động; bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh quốc phòng của đất nước được xây dựng trên nền tảng nhân lực, tinh thần mang tính chất toàn dân, toàn diện độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.

- An ninh nhân dân là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân tiến hành, lực lượng an ninh nhân dân làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước; là một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam có vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. An ninh quốc gia có nhiêm vụ: đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, chính quyền, các lực lượng vũ trang và nhân dân.

- Nền an ninh là sức mạnh về tinh thần, vật chất, sự đoàn kết và truyền thống dựng nước, giữ nước của toàn dân tộc được huy động vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh nhân dân làm nòng cốt.

2. Vị trí

 Xây dựng nền quốc phòng và an ninh nhân dân vững mạnh là tạo ra sức mạnh để ngăn ngừa đẩy lùi đánh bại mọi âm mưu hành động xâm hại đến mục tiêu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đảng ta khẳng định: “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng và an ninh, coi đó là nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ”.

3. Đặc trưng

a) Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân chỉ có mục đích duy nhất là tự vệ chính đáng

Đặc trưng thể hiện sự khác nhau về bản chất trong xây dựng nền quốc phòng và an ninh của những quốc gia có độc lập chủ quyền đi theo con đường xã hội chủ nghĩa với các quốc gia khác.

Xây dựng nền quốc phòng và an ninh nhân dân vững mạnh là để tự vệ, chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn ven lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và cuộc sống tự do, hạnh phúc của nhân dân.

b) Đó là nền quốc phòng và an ninh vì dân, của dân và do toàn thể nhân dân tiến hành

Đặc trưng thể hiện truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước.

Đặc trưng còn cho phép ta huy động mọi người, mọi tổ chức, mọi lực lượng xây dựng nền quốc phòng và an ninh và đấu tranh quốc phòng và an ninh.

Đồng thời, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòngan ninh phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân.

c) Đó là nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân có sức mạnh tổng hợp do nhiều yếu tố tạo thành

Sức mạnh tổng hợp của nến quốc phòng và an ninh nước ta là cơ sở, tiền đề, là biện pháp để nhân dân ta đánh thắng kẻ thù xâm lược. Sức mạnh đó được tạo thành bởi nhiều yếu tố như: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, khoa học - công nghệ, quân sự, an ninh, đối ngoại … cả ở trong nước, ngoài nước, của dân tộc và của thời đại, trong đó những yếu tố bên trong của dân tộc giữ vai trò quyết định.

d) Nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được xây dựng toàn diện và từng bước hiện đại

Sức mạnh quốc phòng và an ninh không chỉ ở sức mạnh quân sự, an ninh mà phải huy động được sức mạnh của của toàn dân về mọi mặt. Phải kết hợp hữu cơ giữa quốc phòng và an ninh với các mặt hoạt động xây dựng đất nước, kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại.

Xây dựng nền quốc phòng và an ninh toàn diện phải đi đôi với xây dựng nền quốc phòng và an ninh hiện đại là một tất yếu khách quan. Xây dựng quân đội nhân dân, công an nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Kết hợp giữa xây dựng con người có bản chất cách mạng với vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại. Kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh.

e) Nền quốc phòng toàn dân gắn chặt với an ninh nhân dân

Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân đều chung mục đích là bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giữa nền quốc phòng toàn dân với nền an ninh nhân dân chỉ khác nhau về phương thức tổ chức lực lượng, hoạt động cụ thể, theo mục tiêu cụ thể được phân công.

Việc kết hợp phải tiến hành thường xuyên và đồng bộ, thống nhất từ trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch xây dựng, hoạt động của cả nước, từng vùng, miền, địa phương, mọi cấp, mọi ngành.

II. XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN VỮNG MẠNH ĐỂ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIÊT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Mục đích xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh hiện nay

- Tạo sức mạnh tổng hợp cả về chính trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, công nghệ để giữ vững hoà bình, ổn định, đẩy lùi, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức và quy mô.

- Tạo thế chủ động cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhằm bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đât nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá, xã hội; giữ vững ổn định chính trị, môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

2. Nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh hiện nay

Xây dựng lực lượng quốc phòng và an ninh đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

- Lực lượng quốc phòng và an ninh là những con người, tổ chức và những cơ sở vật chất, tài chính đảm bảo cho các hoạt động đáp ứng yêu cầu của quốc phòng và an ninh.

- Lực lượng quốc phòng và an ninh của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân bao gồm lực lượng toàn dân (lực lượng chính trị) và lực lượng vũ trang nhân dân.

- Lực lượng chính trị bao gồm: các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị- xã hội và những tổ chức khác trong đời sống xã hội đã được phép thành lập và quần chúng nhân dân. Lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm quân đội nhân dân, dân quân tự vệ, công an nhân dân.

- Xây dựng lực lượng quốc phòng và an ninh là xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu của quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

3. Xây dựng tiềm lực quốc phòng và an ninh ngày càng vững mạnh

Tiềm lực quốc phòng và an ninh là khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính có thể huy động được để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh. Tiềm lực quốc phòng và an ninh được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng tập trung nhất ở tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học công nghệ,… Xây dựng tiềm lực quốc phòng và an ninh là tập trung xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học công nghệ.

a) Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần

 - Tiềm lực chính trị, tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về chinh trị, tinh thần có thể huy động tạo nên sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh. Tiềm lực chính trị tinh thần được biểu hiện ở năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước; ý chí quyết tâm của nhân dân, của các lực lượng vũ trang nhân dân sẵn sàng đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong mọi hoàn cảnh, tình huống.

- Tiềm lực chính trị tinh thần là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh quốc phòng và an ninh, có tác động to lớn đến hiệu quả xây dựng và sử dụng các tiềm lực khác, là cơ sở, nền tảng của tiềm lực quân sự, an ninh.

 - Nội dung xây dựng cần tập trung: xây dựng tình yêu quê hương đất nước, niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng khối đai đoàn kết toàn dân; nâng cao cảnh giác cách mạng; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện tốt giáo dục quốc phòng và an ninh.

 b) Xây dựng tiềm lực kinh tế

- Tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về kinh tế của đất nước có thể khai thác, huy động nhằm phục vụ cho quốc phòng và an ninh.

- Xây dựng tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là tạo nên khả năng về kinh tế bao gồm nhân lực, vật lực, tài lực của đất nước. Tiềm lực kinh tế tạo nên sức mạnh vật chất cho nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, là cơ sở vật chất cho các tiềm lực khác.

- Nội dung xây dựng cần tập trung vào: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng và an ninh; phát triển công nghiệp quốc phòng, trang bị kỹ thuật hiện đại cho quân đội và công an.

c) Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ

- Tiềm lực khoa học công nghệ của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân là khả năng về khoa học (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội-nhân văn) và công nghệ của quốc gia có thể khai thác, huy động để phục vụ cho quốc phòng và an ninh.

- Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là tạo nên khả năng về khoa học, công nghệ của quốc gia có thể khai thác, huy động phục vụ cho quốc phòng và an ninh

- Nội dung xây dựng: huy động tổng lực các khoa học, công nghệ quốc gia, trong đó khoa học quân sự, an ninh làm nòng cốt để nghiên cứu các vấn đề về quân sự, an ninh, thiết kế, chế tao, sữa chữa các loại vũ khí trang bị; đồng thời phải thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật.

d) Xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh

- Tiềm lực quân sự, an ninh của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động tạo thành sức mạnh phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, an ninh cho chiến tranh.

- Tiềm lực quân sự, an ninh được xây dựng trên nền tảng của các tiềm lực chính trị, tinh thần, kinh tế, khoa học công nghệ.

- Nội dung xây dựng cần tập trung: xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện; gắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với quá trình tăng cường vũ khí trang bị cho các lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng đội ngũ cán bộ trong lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; bố trí lực lượng luôn đáp ứng yêu cầu chuẩn bị cho đất nước về mọi mặt, sẵn sàng động viên thời chiến; tăng cường nghiên cứu khoa học quân sự, nghệ thuật quân sự trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc hiện nay và nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng và an ninh.

4. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc

- Thế trận quốc phòng và an ninh là sự tổ chức bố trí lực lượng, tiềm lực mọi mặt của đất nước và của toàn dân trên toàn bộ lãnh thổ theo yêu cầu của quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Nội dung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân gồm: phân vùng chiến lược về quốc phòng và an ninh kết hợp với vùng kinh tế trên cơ sở quy hoạch các vùng dân cư theo nguyên tắc bảo vệ đi đôi với xây dựng đất nước; xây dựng hậu phương, tạo chỗ dựa vững chắc cho thế trận quốc phòng và an ninh; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) tạo nền tảng của thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; triển khai các lực lượng trong thế trận, tổ chức phòng thủ dân sự kết hợp cải tạo địa hình với xây dựng hạ tầng và các công trình quốc phòng và an ninh.

III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHÍNH XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN HIỆN NAY

1. Thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục quốc phòng và an ninh

Thực hiện Chỉ thị 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị và Nghị định 116/2007/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ. Nội dung giáo dục quốc phòng và an ninh phải toàn diện, coi trọng giáo dục tình yêu quê hương, đất nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; nghĩa vụ công dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, trách nhiệm triển khai thực hiện của các cơ quan, tổ chức và nhân dân đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân

Cụ thể hoá các nội dung lãnh đạo về quốc phòng và an ninh và bổ sung cơ chế hoạt động của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, đặc biệt chú trọng khi xử trí các tình huống phức tạp. Điều chỉnh cơ cấu quản lý Nhà nước về quốc phòng và an ninh của bộ máy Nhà nước các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Tổ chức phân công cán bộ chuyên trách để phát huy vai trò tham mưu trong tổ chức, thực hiện công tác quốc phòng và an ninh. Thực hiện nghiêm quy chế 107/2003/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ về phối hợp quân đội với công an và Nghị quyết 51-NQ/TW của Bộ chính trị về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

3. Nâng cao ý thức, trách nhiệm công dân cho sinh viên trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là trách nhiệm của toàn dân. Mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lượng đều phải tham gia theo phạm vi và khả năng của mình. Đối với sinh viên phải tích cực học tập nâng cao hiểu biết về mọi mặt, nắm vững kiến thức quốc phòng và an ninh, nhận thức rõ âm mưu, hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Trên cơ sở đó tự giác, tích cực luyện tập các kỹ năng quân sự, an ninh và chủ động tham gia các hoạt động về quốc phòng và an ninh do nhà trường và địa phương triển khai.

KẾT LUẬN

Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần phải có sức mạnh tổng hợp. Một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp là phải có được nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh là tạo ra sức mạnh để ngăn ngừa, đẩy lùi, đánh bại mọi âm mưu, hành động xâm hại đến mục tiêu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân của ta là nền quốc phòng và an ninh vì dân, của dân và do toàn thể nhân dân tiến hành. Vì vậy, mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi cấp, mọi ngành phải ý thức đầy đủ được nghĩa vụ trách nhiệm đối với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Từ đó, xây dựng lòng tin, vận dụng vào thực hiện tốt trách nhiệm của mình để cùng cả nước xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân ngày càng vững mạnh.

Sinh viên phải nhận thức đúng đắn về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xác định nghĩa vụ, trách nhiệm bản thân, tích cực học tập, rèn luyện và tham gia các hoạt động về quốc phòng và an ninh, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Nêu vị trí, đặc trưng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân?

2. Trình bày mục đích nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh. Liên hệ thực tiễn và trách nhiệm của bản thân?

 

 

Bài 4

CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ

TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

--------------------

Dân tộc Việt Nam có lịch sử hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Truyền thống đánh giặc của dân tộc ta là huy động sức mạnh toàn dân tộc “lấy yếu đánh mạnh”, “lấy ít địch nhiều”, tiến hành chiến tranh nhân dân “toàn dân đánh giặc”. Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước diễn ra nhanh chóng, chứa đựng những yếu tố khó lường. Chủ nghĩa đế quốc đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm chống phá nước ta, chúng luôn tìm mọi thời cơ để can thiệp, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, kể cả dùng biện pháp vũ trang xâm lược. Vì vậy, nhân dân ta phải luôn đề cao cảnh giác, ra sức chuẩn bị mọi mặt và sẵn sàng tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đánh thắng quân xâm lược trong mọi tình huống.

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC

1. Mục đích, đối tượng của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc

a) Mục đích

Chiến tranh nhân dân là quá trình sử dụng tiềm lực của đất nước, nhất là tiềm lực quốc phòng và an ninh, nhằm đánh bại ý đồ xâm lược, lật đổ của kẻ thù đối với cách mạng nước ta.

Nhằm mục đích “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhấttoàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ đường lối đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ gìn ổn định chính trị và môi trường hòa bình để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

b) Đối tượng tác chiến của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc

- Đối tượng tác chiến

 Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động có âm mưu và hành động phá hoại, xâm lược, lật đổ cách mạng, hiện nay chúng thực hiện chiến lược “diễn biễn hòa hình”, bạo loạn lật đổ để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta và sẵn sàng sử dụng lực lượng vũ trang hành động quân sự can thiệp khi có thời cơ.

- Âm mưu, thủ đoạn chủ yếu của kẻ thù khi xâm lược nước ta

Thực hiện đánh nhanh, thắng nhanh, kết hợp tiến công quân sự từ bên ngoài vào với hành động bạo loạn lật đổ từ bên trong, đồng thời kết hợp với các biện pháp phi vũ trang để lừa bịp dư luận.

Khi tiến công, trong giai đoạn đầu thường thực hiện bao vây, cấm vận, phong tỏa, sau đó sử dụng hỏa lực đánh bất ngờ, ồ ạt. Giai đoạn thực hành thôn tính lãnh thổ có thể kết hợp với bạo loạn lật đổ từ bên trong của các lực lượng phản động và kết hợp với các lực lượng phi vũ trang khác.

c) Những điểm mạnh, yếu của địch

- Điểm mạnh: Có ưu thế tuyệt đối về sức mạnh quân sự, kinh tế và tiềm lực khoa học công nghệ. Có thể cấu kết với lực lượng phản động trong nước thực hiện trong đánh ra, ngoài đánh vào.

- Điểm yếu: Đây là cuộc chiến tranh phi nghĩa, chắc chắn bị nhân loại phản đối. Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, chống xâm lược, chắc chắn sẽ làm chúng bị tổn thất nặng nề, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của địch. Địa hình thời tiết nước ta phức tạp khó khăn cho địch sử dụng phương tiện, lực lượng.

2. Tính chất, đặc điểm của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc

a) Tính chất

- Là cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Là cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ cách mạng, nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân và mọi thành quả cách mạng.

- Là cuộc chiến tranh mang tính hiện đại (vũ khí, trang bị, tri thức và nghệ thuật quân sự).

b) Đặc điểm của chiến tranh nhân dân

- Trong bối cảnh quốc tế, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp.

- Trong cuộc chiến tranh, nhân dân ta phải bảo vệ được độc lập thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa, mang tính độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính, kết hợp với sức mạnh thời đại.

- Chiến tranh diễn ra khẩn trương, quyết liệt, phức tạp ngay từ đầu và trong suốt quá trình chiến tranh.

- Hình thái đất nước được chuẩn bị sẵn sàng, thế trận quốc phòng và an ninh nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc, có điều kiện để phát huy sức mạnh tổng hợp chủ động đánh địch ngay từ ngày đầu và lâu dài.

II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TRONG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Kết hợp tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương với tác chiến của các binh đoàn chủ lực

a) Vị trí:

Đây là quan điểm cơ bản xuyên suốt thể hiện tính nhân dân sâu sắc. Khẳng định, đây là cuộc chiến tranh của dân, do dân và vì dân. Là điều kiện để phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp trong cuộc chiến tranh.

b) Nội dung

- Trong điều kiện mới ta vẫn phải “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều”, Đảng ta không chỉ dựa vào lực lượng vũ trang mà phải dựa vào sức mạnh của toàn dân, tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc…

- Động viên toàn dân đánh giặc, trong đó lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc trên chiến trường cả nước. Đánh địch bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, bằng những cách độc đáo, sáng tạo…

- Tiến hành chiến tranh toàn dân, đó là truyền thống, đồng thời là quy luật giành thắng lợi trong chiến tranh của dân tộc ta chống kẻ thù xâm lược. Ngày nay, chúng ta phải kế thừa và phát huy truyền thống ấy lên một trình độ mới phù hợp với điều kiện mới, thực hiện chiến tranh toàn dân đánh thắng cuộc tiến công xâm lược của địch.

c) Biện pháp thực hiện

- Tăng cường giáo dục quốc phòng cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng.

- Không ngừng chăm lo xây dựng các lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện, đặc biệt là chất lượng chính trị.

- Không ngừng nghiên cứu nghệ thuật quân sự, nghiên cứu các cuộc chiến tranh gần đây ở trên thế giới để phát triển nghệ thuật quân sự lên một tầm cao mới. Xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng thủ vững chắc

2. Tiến hành chiến tranh toàn diện, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá và tư tưởng, lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu, lấy thắng lợi trên chiến trường là yếu tố quyết định để giành thắng lợi trong chiến tranh

a) Vị trí

Quan điểm trên có vai trò quan trọng, vừa mang tính chỉ đạo và hướng dẫn hành động cụ thể để giành thắng lợi trong chiến tranh.

b) Nội dung

- Chiến tranh là một cuộc thử thách toàn diện đối với sức mạnh vật chất, tinh thần của quốc gia, nhưng chiến tranh của ta là một cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ, cách mạng. Để phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của toàn dân, đánh bại chiến tranh tổng lực của địch trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá và tư tưởng.

- Tất cả các mặt trận đấu tranh phải kết hợp chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau và tạo điều kiện cho đấu tranh quân sự giành thắng lợi trên chiến trường và cùng với đấu tranh quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi cho cuộc chiến tranh.

- Truyền thống và kinh nghiệm của cuộc chiến tranh giải phóng và giữ nước trong lịch sử ông cha ta cũng như dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến toàn diện, đấu tranh với địch trên nhiều mặt nhưng chủ yếu đã đánh địch và thắng địch trên mặt trận quân sự, nhờ đó mà nhân dân ta đã giành được thắng lợi, giành và giữ nền độc lập dân tộc. Tình hình thế giới ngày nay diễn biến phức tạp và có những thay đổi sâu sắc, đất nước đứng trước những thuận lợi mới và những thách thức mới đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cùng nỗ lực phấn đấu làm thất bại âm mưu và các mục tiêu chiến lược của địch, giành thắng lợi toàn diện cho chiến tranh.

c) Biện pháp

- Đảng phải có đường lối chiến lược, sách lược đúng, tạo thế và lực cho từng mặt trận đấu tranh tạo nên sức mạnh, trước mắt đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của địch. Động viên sức mạnh của toàn dân tiến hành trên các mặt trận khi kẻ thù phát động chiến tranh xâm lược

- Phải vận dụng sáng tạo nhiều hình thức và biện pháp đấu tranh thích hợp trên từng mặt; đồng thời có nghệ thuật chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ các mặt trận đấu tranh trong từng giai đoạn cũng như quá trình phát triển của chiến tranh. Song phải luôn quán triệt lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu, lấy thắng lợi trên chiến trường là yếu tố quyết định để kết thúc chiến tranh.

3. Chuẩn bị mọi mặt trên cả nước cũng như từng khu vực để đủ sức đánh được lâu dài, ra sức thu hẹp không gian, rút ngắn thời gian của chiến tranh giành thắng lợi càng sớm càng tốt

- Kẻ thù tiến công nước ta là nước lớn, có quân đông, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại, có tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học và công nghệ mạnh hơn ta nhiều lần. Do đó chúng ta phải chuẩn bị mọi mặt đầy đủ, chu đáo. Chuẩn bị tốt mọi mặt sẽ giành được thế chủ động và cũng là thực hiện tư tưởng tiến công giàng thắng lợi trong chiến tranh.

- Chúng ta phải chuẩn bị mọi mặt trên cả nước cũng như từng khu vực đủ sức đánh được lâu dài, ra sức tạo thời cơ, nắm vững thời cơ, chủ động đối phó và giành thắng lợi trong thời gian cần thiết. Trên cơ sở đó, chúng ta dồn sức để rút ngắn thời gian của chiến tranh, giành thắng lợi càng sớm càng tốt.

4. Kết hợp kháng chiến với xây dựng, vừa kháng chiến vừa xây dựng, ra sức sản xuất, thực hành tiết kiệm, giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta càng đánh càng mạnh

- Đây là một kinh nghiệm đồng thời là truyền thống chống giặc ngoại xâm trước kia cũng như cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nếu chiến tranh xẩy ra, sẽ quyết liệt ngay từ đầu. Quy mô chiến tranh, thương vong về người, tiêu hao về vật chất kỹ thuật sẽ rất lớn, nhu cầu bảo đảm cho chiến tranh và ổn định đời sống nhân dân đòi hỏi cao và khẩn trương.

- Với tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, trong chiến tranh chúng ta phải vừa kháng chiến, vừa duy trì và đẩy mạnh sản xuất bảo đảm nhu cầu vật chất, kỹ thuật cho chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân. Ta phải thực hành tiết kiệm trong xây dựng và trong chiến tranh, lấy của địch đánh địch, giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta, không ngừng tăng thêm tiềm lực của chiến tranh, càng đánh càng mạnh.

5. Kết hợp đấu tranh quân sự với bảo đảm an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, trấn áp kịp thời mọi âm mưu và hành động phá hoại gây bạo loạn

- Hiện nay kẻ địch đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước ta. Nếu chiến tranh xảy ra, địch sẽ tăng cường đánh phá ta bằng nhiều biện pháp.

- Vì vậy, đi đôi với đấu tranh quân sự trên chiến trường, ta phải kịp thời trấn áp mọi âm mưu và hành động phá hoại của địch ở hậu phương, bảo đảm an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc hậu phương, giữ vững sự chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến đánh thắng kẻ thù.

6. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới

- Cuộc chiến tranh xâm lược của địch là tàn bạo và vô nhân đạo, sẽ bị nhân dân tiến bộ trên thế giới phản đối.

- Đoàn kết mở rộng quan hệ, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, kể cả nhân dân nước có quân xâm lược

III. MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC

1. Tổ chức thế trận chiến tranh nhân dân

- Thế trận chiến tranh nhân dân là sự tổ chức, bố trí lực lượng để tiến hành chiến tranh và hoạt động tác chiến.

- Thế trận chiến tranh bố trí rộng trên cả nước nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm. Xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh toàn diện, có khả năng độc lập tác chiến, đồng thời phối hợp với bộ đội chủ lực và đơn vị bạn đánh địch liên tục, dài ngày, liên kết thành thế trận làng nước.

2. Tổ chức lực lượng chiến tranh nhân dân

- Lực lượng chiến tranh nhân dân là toàn dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện, lấy lực lưọng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.

- Lực lượng toàn dân được tổ chức chặt chẽ thành lực lượng quần chúng rộng rãi và lực lượng quân sự.

- Lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng vững mạnh toàn diện, coi trọng cả chất lượng và số lượng, trong đó lấy chất lượng là chính, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở.

3. Phối hợp chặt chẽ chống quân địch tiến công từ bên ngoài vào và bạo loạn lật đổ từ bên trong

- Kẻ thù xâm lược nước ta có thể sẽ sử dụng lực lượng tiến công từ bên ngoài vào và bạo loạn lật đổ ở bên trong, đánh nhanh giải quyết nhanh, vì vậy buộc ta phải chủ động ngăn chặn ý đồ của chúng, không để kẻ địch cấu kết với nhau.

- Trong quá trình chuẩn bị lực lượng vũ trang phải có kế hoạch, phương án chiến đấu và được phổ biến quán triệt đến mọi người, dự kiến và kết hợp xử lý các tình huống chiến đấu xảy ra.

KẾT LUẬN

Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, ta vẫn phải “lấy ít đánh nhiều”, lấy nhỏ đánh lớn”, chống lại kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự lơn hơn ta nhiều lần. Con đường đi đến thắng lợi của chúng ta là bằng sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, bằng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện.

Từ tính chất và đặc điểm của chiến tranh, chúng ta phải nắm vững và vận dụng sáng tạo những quan điểm của Đảng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc để phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, xây dựng tiềm lực quốc phòng và an ninh vững mạnh, xây dưng thế trận quốc phòng và an ninh vững chắc, đặc biệt là thế trận lòng dân, chuẩn bị mọi mặt chu đáo, sẵn sàng đánh thắng địchtrong mọi tình huống.

Sinh viên phải nhận thức đúng đắn về chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lòng tin chiến thắng, chăm chỉ học tập, rèn luyện toàn diện để trở thành công dân tốt, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Mục đích, tính chất, đặc điểm của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc?

2. Quan điểm của Đảng về chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa?

3. Tại sao phải tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện?

 

 

Bài 5

XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT NAM

-------------------

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta sáng lập, giáo dục và rèn luyện; mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và dân tộc sâu sắc. Quá trình chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành của lực lượng vũ trang nhân dân luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, chiến đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong giai đoạn hiện nay.

 

I. ĐẶC ĐIỂM, QUAN ĐIỂM NGUYÊN TẮC CƠ BẢN XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

1. Khái niệm

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là các tổ chức vũ trang và bán vũ trang của nhân dân Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước Cộng hòa xã hội Việt Nam quản lý, có nhiệm vụ:

- Chiến đấu giành và giữ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ

- Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả cách mạng

- Cùng toàn dân xây dựng đất nước

- Là lực lượng xung kích trong khởi nghĩa toàn dân giành chính quyền.

- Là lực lượng nòng cốt của quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và chiến tranh nhân dân.

2. Đặc điểm liên quan đến xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân

a) Cả nước đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong khi chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá ta quyết liệt.

- Hai nhiệm vụ chiến lược trên có mối quan hệ chặt chẽ, tác động với nhau để cùng thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Do đó, trong khi chúng ta đặt nhiệm vụ trọng tâm vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, không được một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

- Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá cách mạng Việt Nam về mọi mặt, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là một trọng điểm.

- Chúng ta cần phải nắm chắc âm mưu, thủ đoạn chiến lược “diễn biến hòa bình” của địch để có kế hoạch phòng ngừa, bảo đảm xây dựng lực lượng vũ trang Nhân dân vững mạnh về mọi mặt

b) Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong điều kiện quốc tế đã thay đổi, có nhiều diễn biến phức tạp

- Tình hình thế giới

Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu sụp đổ, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới gặp nhiều khó khăn. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, chạy đua vũ trang (nhất là chạy đua vũ khí hạt nhân), khủng bố, tranh chấp biên giới, tài nguyên diễn ra ở nhiều nơi tính chất ngày càng phức tạp.

- Khu vực Đông Nam Á

Vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố mất ổn định, các nước lớn đang tăng cường ảnh hưởng của mình để lôi kéo các nước ASEAN.

c) Sự nghiệp đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đất nước ta bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới toàn diện hơn.

- Thuận lợi cơ bản

+ Tiềm lực và vị thế nước ta được tăng cường; Đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo; nhân dân ta có truyền thống yêu nước, đoàn kết, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; lực lượng vũ trang ta tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân.

+ Trên cơ sở phát huy những thuận lợi của nước ta trong hiệp hội ASEAN, thành viên tổ chức thương mại thế giới để giữ vững môi trường hoà bình và phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa… Đó là nền tảng vững chắc để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.

- Thách thức lớn

+ Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới;

+ Suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

+ Những biểu hiện xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa

+ Các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ.

d) Thực trạng của lực lượng vũ trang nhân dân ta

Trong những năm qua, lực lượng vũ trang nhân dân ta đã có những bước trưởng thành lớn mạnh cả về bản lĩnh chính trị, chất lượng tổng hợp, trình độ chính quy, sức mạnh chiến đấu không ngừng được nâng lên. Đã hoàn thành tốt cả ba chức năng, xứng đáng là lực lượng nòng cốt đi đầu giải quyết hiệu quả những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp mà Đảng, Nhà nước giao cho. Tuy vậy, cần tập trung tháo gỡ một số vấn đề sau :

- Về chất lượng chính trị: Trên thực tế, trình độ lý luận, tính nhạy bén, sắc sảo và bản lĩnh chính trị của không ít cán bộ, chiến sỹ ta chưa tương xứng với vị trí, yêu cầu, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

- Về khả năng chiến đấu và trình độ sẵn sang chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân còn có những mặt hạn chế, chưa đáp ứng được các tình huống phức tạp (nếu xảy ra). Công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ còn có những nội dung bất cập, chưa thật sát với nhiệm vụ và năng lực thực hành theo cương vị đảm nhiệm.

- Trình độ chính quy của Quân đội ta chưa đáp ứng được yêu cầu tác chiến hiện đại. Chấp hành kỷ luật của một bộ phận lực lượng vũ trang còn chuyển biến chậm, vẫn để xảy ra những vụ việc, ảnh hưởng đến sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang.

- Về trang bị của lực lượng vũ trang còn lạc hậu, thiếu đồng bộ. Vấn đề nghiên cứu phát triển hoàn thiện nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời kỳ mới cần được tổ chức một cách khoa học, phối hợp chặt chẽ giữa viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo và thực tiễn…

3. Những quan điểm, nguyên tắc cơ bản xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ mới

a) Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lực lượng vũ trang nhân dân

- Ý nghĩa

Là quan điểm, nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang sẽ quyết định bản chất cách mạng, mục tiêu, phương hướng chiến đấu, đường lối tổ chức và cơ chế hoạt động, bảo đảm nắm chắc quân đội trong mọi tình huống. Thực tiễn cách mạng Việt Nam qua mấy chục năm qua đã chứng minh điều đó.

- Nội dung

+ Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn lãnh đạo lực lượng vũ trang nhân dân theo nguyên tắc “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”, Đảng không nhường hoặc chia sẻ quyền lãnh đạo cho bất cứ giai cấp, lực lượng tổ chức nào. Đảng có hệ thống tổ chức từ trung ương đến cơ sở, lãnh đạo mọi họat động của lực lượng vũ trang.

+ Trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Đảng lãnh đạo theo hệ thống dọc từ Đảng ủy quân sự Trung ương đến các đơn vị cơ sở trong toàn quân. Trực tiếp lãnh đạo các đơn vị ở địa phương (bộ đội địa phương và dân quân tự vệ) là các cấp uỷ đảng ở địa phương.

+ Đảng lãnh đạo trên mọi mặt hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức… cả trong xây dựng và chiến đấu.

b) Tự lực tự cường xây dựng lực lượng vũ trang

- Cơ sở: Từ truyền thống, kinh nghiệm trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta; từ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang và thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trong mấy chục năm qua.

- Nội dung: Tự lực tự cường dựa vào sức mình để xây dựng, để giữ vững tính độc lập tự chủ, chủ động không bị chi phối ràng buộc.

+ Nâng cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.

+ Triệt để tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi về khoa học- công nghệ để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân. Tập trung từng bước hiện đại hoá trang bị kỹ thuật quản lý khai thác bảo quản có hiệu quả trang bị hiện có…

+ Tích cực đẩy mạnh phát triển kinh tế và thực hành tiết kiệm.

c) Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân lấy chất lượng là chính, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở

- Cơ sở

+ Xuất phát từ lý luận Mác-Lênin về mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng

+ Truyền thống xây dựng lực lượng vũ trang của ông cha ta “binh quý hổ tinh, bất quý hổ đa”

+ Từ thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng chất lượng, lấy chất lượng chính trị làm cơ sở…

+ Từ sự chống phá của kẻ thù trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm phi chính trị hóa quân đội…

- Nội dung:

+ Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng. Nâng cao chất lượng là chính, đồng thời phải có số lượng phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và khả năng kinh tế của đất nước.

+ Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân có chất lượng, toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức.

+ Về chính trị phải thường xuyên làm tốt công tác quán triệt, giáo dục cho cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng vũ trang nhân dân tin tưởng vào đường lối quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước.

+ Chăm lo xây dựng, củng cố các tổ chức chính trị trong lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh (tổ chức đảng, đoàn thanh niên, hội đồng quân nhân…).

+ Chăm lo xây dựng cơ quan chính trị vững mạnh, đội ngũ cán bộ chính trị, đảng viên có phẩm chất năng lực tổt đủ sức lãnh đạo đơn vị.

d) Bảo đảm lực lượng vũ trang luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi

- Cơ sở: Đây là quan điểm phản ánh chức năng, nhiệm vụ chủ yếu cơ bản, thường xuyên của lực lượng vũ trang nhân dân, có ý nghĩa quan trọng bảo đảm cho lực lượng vũ trang chủ động đối phó kịp thời và thắng lợi trong mọi tình huống xảy ra.

- Nội dung:

+ Lực lượng vũ trang nhân dân phải luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, đánh địch kịp thời, bảo vệ được mình, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống.

+ Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về mọi mặt, duy trì và chấp hành nghiêm các chế độ, quy định về SSCĐ, trực ban, trực chiến, trực chỉ huy…

II. PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Phương hướng chung: Nghị quyết Trung ương lần thứ 8 khóa IX về chiến lược bảo vệ Tổ quốc xác đinh: “Tập trung xây dựng quân đội, công an có bản lĩnh chính trị vững vàng, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc, nhân dân. Với tổ chức biên chế, đầu tư ngân sách hợp lý, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Đây là cơ sở để xác định phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang.

1. Xây dựng quân đội nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại

a) Xây dựng quân đội cách mạng

Đây là vấn đề cơ bản hàng đầu trong nhiệm vu xây dựng quân đội của Đảng trong mọi giai đoạn cách mạng.

 - Nội dung

+ Xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội, làm cho lực lượng này tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân.

+ Chấp hành mọi đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước.

+ Kiên định mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, vững vàng trước mọi khó khăn thử thách, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

+ Trước diễn biến tình hình phải phân biệt được đúng sai

+ Có tinh thần đoàn kết quân dân, đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế tốt

+ Kỷ luật tự giác nghiêm minh, dân chủ rộng rãi

b) Chính quy

Là thực hiện thống nhất về mọi mặt (tổ chức, biên chế, trang bị). Dựa trên những chế độ, điều lệnh quy định, đưa mọi hoạt động của quân đội vào nền nếp nhằm thống nhất ý chí và hành động để tăng cường sức mạnh chiến đấu tổng hợp của quân đội.

 - Nội dung

+ Thống nhất về bản chất cách mạng, mục tiêu chiến đấu, về ý chí quyết tâm, nguyên tắc xây dựng quân đội, về tổ chức biên chế trang bị.

+ Thống nhất về quan điểm tư tưởng quân sự, nghệ thuật quân sự, về phương pháp huấn luyện giáo dục.

+ Thống nhất về tổ chức thực hiện chức trách nề nếp chế độ chính quy, về quản lý bộ đội, quản lý trang bị.

c) Tinh nhuệ

Biểu hiện mọi hoạt động của quân đội trên các lĩnh vực đạt hiệu quả cao.

 - Nội dung:

+ Tinh nhuệ về chính trị: Trước diễn biến của tình hình, có khả năng phân tích và kết luận chính xác đúng sai, từ đó có thái độ đúng đắn với sự việc đó.

+ Tinh nhuệ về tổ chức: Tổ chức gọn nhẹ nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao.

+ Tinh nhuệ về kỹ chiến thuật: Phải giỏi sử dụng các loại binh khí kỹ thuật hiện có, biết sử dụng trang bị vũ khí hiện đại. Giỏi các cách đánh, vận dụng mưu trí sáng tạo các hình thức chiến thuật.

d) Từng bước hiện đại

Hiện đại hoá là một tất yếu nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Trong điều kiện, khả năng về kinh tế của đất nước chúng ta không thể hiện đại hóa ngay được mà phải từng bước hiện đại hóa quân đội về vũ khí trang bị..

 - Nội dung:

+ Từng bước đổi mới vũ khí, trang bị kỹ thuật cho quân đội

+ Xây dựng quân đội nhân dân có bản lĩnh trí tuệ và năng lực hành động, đáp ứng yêu cầu tác chiến hiện đại.

+ Phát triển các quân binh chủng kỹ thuật hiện đại, hệ thống công nghiệp quốc phòng hiện đại

+ Phát triển nghệ thuật quân sự, khoa học quân sự hiện đại

+ Những nội dung trên là cả một quá trình phấn đấu lâu dài mới đạt được, hiện nay ta phải thực hiện bước đi: “từng bước”, nghĩa là phải dần dần bằng khả năng của nền kinh tế và trình độ khoa học của đất nước.

+ Thực hiện sản xuất mới kết hợp với phục hồi sữa chữa cải tiến vũ khí trang bị hiện có và mua một số vũ bị cần thiết.

2. Xây dựng lực lượng dự bị động viên

Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, được huấn luyện và quản lý tốt, bảo đảm khi cần thiết có thể động viên nhanh theo kế hoạch.

Số liệu tham khảo

TT

Tên nước

Lực lượng

thường trực

Lực lượng

dự bị động viên

1

2

3

4

5

Mỹ

Trung Quốc

Nhật Bản

Thái Lan

Singapo

152,3 vạn

270 vạn

2,4 vạn

33,1 vạn

5,3 vạn

213 vạn

300 vạn

Phòng vệ 4,8 vạn

50 vạn

18,2 vạn

3. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ

- Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Dân quân tự vệ và du kích là một lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc, vô luận kẻ thù hung bạo thế nào, hễ đụng đến lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan rã”.

Năm 1990, Chính phủ ban hành Điều lệ Dân quân tự vệ.

Năm 2004, Chính phủ ban hành Pháp lệnh Dân quân tự vệ

Năm 2009, 2019 Luật Dân quân tự vệ được ban hành, đây là sự thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng.

- Nội dung:

+ Dân quân tự vệ được xây dựng rộng khắp ở tất cả các thôn, xóm, bản làng, nông trường, công trường, doanh nghiệp, nhưng có trọng điểm, chú ý hình thức phù hợp trong các thành phần kinh tế.

+ Chú trọng xây dựng cả về số lượng và chất lượng, lấy chất lượng là chính, t chức biên chế phù hợp. Huấn luyện phải thiết thực, hiệu quả.

+ Có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, đào tạo cán bộ dân quân tự vệ. Thực hiện các chính sách với dân quân tự vệ.

III. NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

1. Chấn chỉnh tổ chức biên chế lực lượng vũ trang nhân dân

- Bộ đội chủ lực: Tổ chức các đơn vị phải gọn, mạnh, cơ động nhanh, có sức chiến đấu cao. Bố trí các binh đoàn chủ lực phải gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân trên cả nước cũng như từng vùng chiến lược.

- Bộ đội địa phương: Phải căn cứ vào tình hình cụ thể để tổ chức và bố trí cho phù hợp với từng địa phương và thế trận cả nước.

- Bộ đội biên phòng: Cần có số lượng, chất lượng cao, tổ chức hợp lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, vùng biển, đảo…. theo nhiệm vụ được giao.

- Dân quân tự vệ: Được tổ chức trên cơ sở lực lượng chính trị ở từng đơn vị hành chính, đơn vị sản xuất và dân cư ở cơ sở, có số lượng phù hợp chất lượng cao.

2. Nâng cao chất lượng huấn luyện, giáo dục, xây dựng và phát triển khoa học quân sự Việt Nam.

- Giáo dục huấn luyện là hai nội dung cơ bản, bảo đảm cho lực lượng vũ trang giác ngộ chính trị, có bản lĩnh chiến đấu cao, có trình độ kỹ chiến thuật giỏi, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

- Yêu cầu giáo dục huấn luyện: đúng hướng, đáp ứng nhiệm vụ, sát thực tế, đối tượng tác chiến, phù hợp với khả năng trang bị, địa hình, thời tiết và cách đánh của ta; huấn luyện giỏi tác chiến vũ khí trong biên chế, cũng như được tăng cường binh khí kỹ thuật, tác chiến hiệp đồng quân binh chủng; có sự chuyển hướng về nội dung huấn luyện “phòng tránh đánh trả trong điều kiện địch sử dụng vũ khí công nghệ cao”.

- Phương châm huấn luyện: “cơ bản, toàn diện, thiết thực, vững chắc”.

- Xây dựng phát triển khoa học quân sự Việt Nam: tập trung nghiên cứu, giáo dục đúng, sáng tạo các vấn đề mới nảy sinh trong xây dựng lực lượng

3. Từng bước giải quyết yêu cầu về vũ khí, trang bị kỹ thuật của lực lượng vũ trang nhân dân.

- Xuất phát từ tình hình điều kiện kinh tế đất nước và yêu cầu nhiệm vụ. Cho nên quan điểm chung: kết hợp chặt chẽ tiến trình và bước đi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân.

- Duy trì tốt vũ khí trang bị hiện có trong biên chế và dự trữ, bảo đảm trang bị cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, ưu tiên cho các quân chủng kỹ thuật và bộ đội biên phòng.

4. Xây dựng đội ngũ cán bộ lực lượng vũ trang nhân dân có phẩm chất, năng lực tốt.

- Xuất phát từ vị trí, vai trò của cán bộ: Khi nói về phẩm chất đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh nói: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng”; “đạo đức là cái gốc, là nền tảng của cách mạng”; “có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Có tài mà không có đức là vô dụng”. Vì vậy cho nên phải xây dựng đội ngũ cán bộ trong lực lượng vũ trang có phẩm chất năng lực tốt, là người “vừa hồng, vừa chuyên”.

- Nội dung xây dựng: Nghị quyết Đại Hội X của Đảng xác định: “xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí”.Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VIII xác định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có số lượng, cơ cấu hợp lý, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ kiến thức cơ bản và chuyên môn hóa đạt độ tuổi theo luật định”.

5. Thực hiên nghiêm túc và đầy đủ các chính sách của Đảng, Nhà nước đối với lực lượng vũ trang nhân dân.

- Nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, động viên tình cảm, ý chí của cán bộ - chiến sỹ lực lượng vũ trang cùng gia đình, hậu phương và nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

- Yêu cầu: Chính sách phải bảo đảm công bằng bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, kết hợp với đời sống vật chất và đời sống tinh thần.

- Trong chính sách phải thể hiện được hoạt động của lực lượng vũ trang là một ngành “lao động đặc biệt làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”. Làm cho toàn xã hội nhận rõ trách nhiệm và thực hiện chính sách đối với lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

KẾT LUẬN

Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là một nội dung quan trọng trong đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân phải xây dựng toàn diện, cần tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, trước hết là quân đội nhân dân. Luôn bảo đảm cho lực lượng vũ trang nhân dân hoàn thành tốt nhiệm vụ, là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tin cậy, trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân.

Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân nhân dân là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị và trước hết là trách nhiệm của tuổi trẻ chúng ta. Sinh viên phải nhận thức đúng đắn về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hiện nay, xác định nghĩa vụ, trách nhiệm bản thân, tích cực học tập, rèn luyện và tham gia các hoạt động về quốc phòng và an ninh, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân?

2. Phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân trong tình hình hiện nay?

 

 

Bài 6

KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI VỚI

TĂNG CƯỜNG, CỦNG CỐ QUỐC PHÒNGAN NINH

--------------------

 

Kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng và an ninh nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; quá trình hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu, rộng; trong khi đó các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy, chúng ta phải nghiên cứu quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước về kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng và an ninh để phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG, CỦNG QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH Ở VIỆT NAM

- Kinh tế, quốc phòng và an ninh là ba mặt hoạt động cơ bản nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của mọi quốc gia.

+ Kinh tế là hoạt động cơ bản, thường xuyên, gắn với sự tồn tại của xã hội loài người. Đó là quá trình hoạt động sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu đời sống con người.

+ Quốc phòng là công việc giữ nước của một quốc gia, bao gồm tổng thể các hoạt động đối nội và đối ngoại trên tất cả mọi lĩnh vực nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng đất nước.

+ An ninh là trạng thái trật tự xã hội ổn định an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm đe dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, tổ chức và toàn xã hội. Bảo vệ an ninh luôn kết hợp chặt chẽ với củng cố quốc phòng.

- Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh ở nước ta là hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nước và nhân dân trong việc gắn kết chặt chẽ hoạt động kinh tế-xã hội, quốc phòng và an ninh trong một chỉnh thể thống nhất trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương, thúc đẩy nhau cùng phát triển, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ cách mạng, Đảng ta xác định phải kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh trong một chỉnh thể thống nhất là hoàn toàn đúng đắn trên cơ sở lý luận và thực tiễn.

1. Cơ sở lý luận của sự kết hợp

- Kinh tế, quốc phòng và an ninh là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc độc lập có chủ quyền. Mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động riêng và chịu sự chi phối của hệ thống quy luật riêng, song giữa chúng lại có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó kinh tế quyết định đến quốc phòng và an ninh; quốc phòng và an ninh tác động trở lại với kinh tế, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.

- Kinh tế quyết định đến sức mạnh của quốc phòng và an ninh.

+ Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của quốc phòng và an ninh. Lợi ích kinh tế làm nảy sinh các mâu thuẫn và xung đột trong xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn đó cần phải có quốc phòng và an ninh.

+ Bản chất kinh tế-xã hội quyết định bản chất của quốc phòng và an ninh. Chế độ xã hội chủ nghĩa tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh vì mục đích bảo vệ và mang lại lợi ích cho mọi thành viên trong xã hội nên quốc phòng và an ninh mang bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh vì mục đích bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản cầm quyền, thực hiện chiến tranh xâm lược nên quốc phòng và an ninh mang bản chất tư bản chủ nghĩa.

+ Kinh tế quyết định đến việc cung cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân lực cho hoạt động quốc phòng và an ninh. Ph.Ăngghen đã khẳng đinh: “Không có gì phụ thuộc vào kinh tế tiên quyết hơn là chính quân đội và hạm đội”. Vì vậy, để xây dựng quốc phòng và an ninh vững mạnh, phải xây dựng và phát triển kinh tế.

+ Kinh tế quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cho quốc phòng và an ninh, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của lực lượng vũ trang.

+ Quyết định đến đường lối chiến lược quốc phòng và an ninh. Để xây dựng chiến lược quốc phòng và an ninh quốc gia, phải căn cứ vào nhiều yếu tố, trong đó tổ chức biên chế và trang bị vũ khí kỹ thuật của lực lượng vũ trang là căn cứ đặc biệt quan trọng; những yếu tố này đều phụ thuộc vào nền kinh tế..

- Quốc phòng không chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà còn tác động trở lại với kinh tế-xã hội trên cả góc độ tích cực và tiêu cực.

+ Quốc phòng và an ninh vững mạnh sẽ tạo môi trường hoà bình, ổn định lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội.

+ Tiêu dùng cho hoạt động quốc phòng và an ninh, ở mức độ nhất định cũng có kích thích kinh tế phát triển: sản xuất sản phẩm hoặc mở rộng quan hệ đối ngoại để đáp ứng nhu cầu sản phẩm; quốc phòng và an ninh còn là thị trường tiêu thụ sản phẩm của nền kinh tế.

+ Hoạt động quốc phòng và an ninh tiêu tốn đáng kể một phần nguồn nhân lực, vật lực, tài chính của xã hội. Những tiêu dùng này, như V.I. Lênin đánh giá là tiêu dùng “mất đi”, không quay vào tái sản xuất xã hội.

+ Hoạt động quốc phòng và an ninh còn ảnh hưởng đến đường lối phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế.

+ Hoạt động quốc phòng và an ninh còn có thể dẫn đến huỷ hoại môi trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho kinh tế, nhất là khi chiến tranh xảy ra.

Để hạn chế những tác động tiêu cực của quốc phòng và an ninh cần phải kết hợp việc tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh với phát triển kinh tế-xã hội vào một chỉnh thể thống nhất.

Từ sự phân tích trên, cho thấy kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng và an ninh là một tất yếu khách quan. Mỗi lĩnh vực hoạt động có nội dung, phương thức riêng nhưng lại có sự thống nhất ở mục đích chung, cái này là điều kiện tồn tại của cái kia và ngược lại. Do đó việc kết hợp phải được thực hiện một cách khoa học, hợp lý, cân đối và hài hòa.

2. Cơ sở thực tiễn của sự kết hợp

- Trên thế giới

Theo tiến trình phát triển, các quốc gia trên thế giới, dù là nước lớn hay nước nhỏ; kinh tế phát triển hay chưa phát triển; dù chế độ chính trị như thế nào thì mỗi quốc gia cũng đều chăm lo thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh, kể cả những nước mà hàng trăm năm nay chưa có chiến tranh.

Các nước khác nhau, với chế độ chính trị-xã hội khác nhau, điều kiện hoàn cảnh khác nhau thì sự kết hợp cũng có sự khác nhau về mục đích, nội dung, phương thức và kết quả. Ngay trong một nước, trong mỗi giai đoạn phát triển thì sự kết hợp cũng khác nhau.

- Ở Việt Nam

Sự kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh đã có lịch sử lâu dài gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước; là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc ta.

+ Trước kia, đứng trước nguy cơ thường xuyên bị đe dọa, xâm lược của kẻ thù, để xây dựng và phát triển đất nước, ông cha ta đã có những chủ trương, kế sách thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh trong quá trình dựng nước và giữ nước. Ông cha ta đã đề ra các kế sách giữ nước với tư tưởng: “nước lấy dân làm gốc”, “dân giàu, nước mạnh”, “quốc phú binh cường”; thực hiện kế sách “ngụ binh ư nông”, “động vi binh, tĩnh vi dân”, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc để “yên dân” mà “vẹn đất”, để vừa phát triển kinh tế, vừa tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Trong xây dựng, phát triển kinh tế đã thực hiện chính sách khai hoang lập ấp ở những nơi xung yếu để “phục binh sẵn, phá thế giặc dữ”; phát triển nghề thủ công để vừa sản xuất công cụ lao động, vừa sản xuất vũ khí, phương tiện phục vụ cho toàn dân đánh giặc; mở mang đường sá, đào sông ngòi, kênh rạch, xây đắp đê điều… để vừa phát triển kinh tế, vừa lập thế trận đánh giặc.

+ Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, do nắm vững quy luật và biết kế thừa kinh nghiệm lịch sử nên đã thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh một cách nhất quán, sáng tạo phù hợp với từng thời kỳ.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954): Đảng ta đề ra chủ trương “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, “vừa chiến đấu vừa tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”; chúng ta đồng thời thực hiện phát triển kinh tế địa phương và tiến hành chiến tranh nhân dân rộng khắp: “xây dựng làng kháng chiến”, địch đến thì đánh, địch lui ta lại tăng gia sản xuất.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, (1954 - 1975): để bảo vệ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và xây dựng hậu phương lớn cho miền Nam đánh giặc, Đảng đã đề ra chủ trương: “trong xây dựng kinh tế, phải thấu suốt nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, trong củng cố quốc phòng phải khéo sắp xếp cho ăn khớp với công cuộc xây dựng kinh tế”. Theo tinh thần đó, miền Bắc xây dựng chế độ xã hội mới, đồng thời chăm lo củng cố quốc phòng và an ninh vững mạnh, đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc và chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam đánh đế quốc Mỹ xâm lược.

Ở miền Nam, Đảng chỉ đạo quân và dân ta kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch với củng cố mở rộng hậu phương, xây dựng căn cứ địa miền Nam vững mạnh. Đây chính là một điều kiện cơ bản bảo đảm cho cách mạng nước ta đi đến thắng lợi.

+ Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975 đến nay): Đảng ta khẳng định kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh là một nội dung quan trọng trong đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và được triển khai trên quy mô rộng lớn, toàn diện hơn, có bước chuyển biến mới cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện, đã thu được nhiều kết quả quan trọng.

Nhờ chính sách nhất quán về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh, chúng ta đã phát huy được mọi tiềm năng cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời bình, cùng với phát triển kinh tế là chăm lo củng cố quốc phòng và an ninh, thế trận quốc phòng và an ninh vững chắc. Nhờ vậy, khi đất nước bị xâm lược chúng ta đã động viên được “cả nước đồng lòng, toàn dân đánh giặc”.

II. NỘI DUNG KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, AN NINH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1. Kết hợp trong xác định chiến lược phát triển kinh tế-xã hội

Kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng-an ninh phải được thể hiện ngay trong việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia. Mục tiêu và phương hướng tổng quát phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta từ 2010-2020 là “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; chính trị, xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương đồng thuận; độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”

Như vậy, trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế-xã hôi đã bao quát toàn diện các vấn đề của đời sống xã hội, trong đó có quốc phòng, an ninh.

2. Kết hợp trong các vùng kinh tế trọng điểm và các địa bàn chiến lược

Kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trong phát triển các các vùng kinh tế trọng điểm và các địa bàn chiến lược là sự gắn kết chặt chẽ phát triển vùng kinh tế chiến lược với xây dựng vùng chiến lược quốc phòng, an ninh nhằm tạo ra thế bố trí chiến lược mới cả về kinh tế lẫn quốc phòng, an ninh trên từng vùng lãnh thổ, trên địa bàn tỉnh, thành phố theo ý đồ chiến lược phòng thủ bảo vệ Tổ quốc

Xuất phát từ đặc điểm tiềm năng phát triển kinh tế cũng như vị trí địa chính trị, quân sự, quốc phòng, an ninh của các vùng lãnh thổ trong cả nước, hiên nay Đảng ta đã xác định phải chú trọng nhiều hơn cho các vùng kinh tế trọng điểm, vùng biển đảo và vùng biên giới.

a) Đối với các vùng kinh tế trọng điểm

Vùng kinh tế trọng điểm là vùng có tiềm năng lớn về công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, giao lưu quốc tế; có nhiều trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự quan trọng; là vùng đóng góp chủ yếu cho tổng thu nhập quốc dân, tập trung nhiều đầu mối giao thông quan trọng, nhiều sân bay, bến cảng, nhiều mục tiêu phải bảo vệ. Hiện nay, nước ta xác định 4 vùng kinh tế trọng điểm:

- Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ bao gồm: Hải PhòngHà Nội (hạt nhân của vùng), Hải DươngBắc NinhHưng YênQuảng Ninh và Vĩnh Phúc. Đây là trung tâm kinh tế năng động và là một đầu tàu kinh tế quan trọng của miền Bắc và của cả nước. Việc kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh gắn xây dựng kết cấu hạ tầng với xây dựng các công trình phòng thủ dân sự. Trong kết hợp phát triển kết cấu hạ tầng, tập trung đầu tư nâng cấp các trục giao thông quan trọng như quốc lộ 5, quốc lộ 1, quốc lộ 10, 18. Từng bước xây dựng cảng nước sâu Cái Lân, cải tạo nâng cao năng lực cảng Hải Phòng, phát triển cụm công nghiệp đóng tàu theo hướng lưỡng dụng và mở rộng sân bay quốc tế Nội Bài, Gia Lâm, Cát Bi đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và chiến đấu của Bộ đội Không quân.

- Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: thành phố Hồ Chí MinhĐồng NaiBình DươngBà Rịa-Vũng Tàu, Bình PhướcTây NinhLong An, và Tiền Giang (Long An, Tiền Giang thuộc miền Tây Nam Bộ). Việc kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh vào phát triển công nghiệp, phát triển hạ tầng cơ sở, tiếp tục tập trung đầu tư xây dựng quốc lộ 51, quốc lộ 13 nối với quốc lộ 14, quốc lộ 50, hệ thống cảng Sài Gòn, cảng nước sâu Bến Đình Sao Mai, cảng Vũng Tàu-Thị Vải và nâng cấp sân bay Tân Sơn Nhất và chuẩn bị xây dựng sân bay Long Thành đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội củng cố quốc phòng và an ninh.

- Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung bao gồm: Thừa Thiên-Huế, thành phố Đà NẵngQuảng NamQuảng NgãiBình Định. Đây là vùng kinh tế lớn thứ 3 tại Việt Nam. Trong quy kết hợp phát triển cơ sở hạ tầng, cần tiếp tục tập trung vào các công trình quan trọng như nâng cấp quốc lộ 1A, quốc lộ 14B, 24, xây dựng đường Hồ Chí Minh, đường 14, 15 dọc theo phía tây miền Trung, các đường nối liền vùng đồng bằng ven biển miền Trung với các tỉnh Tây Nguyên, nối các cảng biển Việt Nam với cửa khẩu quốc tế qua Lào, Campuchia, trong đó có một số tuyến hành lang Đông-Tây nối Đông Bắc Thái Lan, Trung Lào và Trung Trung bộ Việt Nam. Cải tạo nâng cấp sân bay quốc tế Đà Nẵng, sân bay trung chuyển hàng hóa Chu Lai (tương lai); cảng Đà Nẵng và đặc biệt là dự án cảng trung chuyển Vân Phong có tổng vốn lên đến 15 tỷ USD do Tập đoàn Sumimoto chủ đầu tư.

- Vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng Sông Cửu Long: Bao gồm các tỉnh (TP): TP. Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau.

Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề như sau:

+ Trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng các thành phố, các khu công nghiệp cần lựa chọn quy mô trung bình, bố trí phân tán, trải đều trên diện rộng, không nên xây dựng tập trung thành những siêu đô thị lớn, để thuận lợi cho quản lý, giữ gìn an ninh chính trị trong thời bình và hạn chế hậu quả khi có chiến tranh.

+ Phải kết hợp chặt chẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với kết cấu hạ tầng của nền quốc phòng toàn dân. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với các công trình phòng thủ, các thiết bị chiến trường, các công trình phòng thủ dân sự…

+ Trong quá trình xây dựng các khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế phải có sự gắn kết với quy hoạch xây dựng lực lượng quốc phòng và an ninh, các tổ chức chính trị, đoàn thể ngay trong các tổ chức kinh tế đó.

+ Việc xây dựng, phát triển kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm phải nhằm đáp ứng phục vụ nhu cầu dân sinh thời bình và thời chiến.

b) Đối với trong các địa bàn chiến lược

Các địa bàn chiến lược ở nước ta bao gồm vùng miền núi Bắc Bộ, khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và vùng biển, đảo. Hiện nay, trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc các khu vực đó vẫn sẽ là những địa bàn chiến lược hết sức trọng yếu.

Vùng miền núi phía Bắc: Toàn vùng có 1.800 km đường biên giới (1.487 km với Trung quốc, 300 km với Lào). Có 4 cửa khẩu quốc tế (Móng Cái-Quảng Ninh; Hữu Nghị, Đồng Đăng-Lạng Sơn và Lào Cai). Là vùng có vị trí chính trị, kinh tế quan trọng và là địa bàn xung yếu về quốc phòng, an ninh. Vì vậy, tập trung ưu tiên phát triển kinh tế-xã hội, chú trọng công tác định canh, định cư, bố trí điều chỉnh lại dân cư và lao động, nhất là các địa bàn vùng cao, dân tộc thiểu số và trên tuyến biên giới, bảo đảm khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh về lao động, đất đai, tài nguyên miền núi; hình thành các cụm làng xã chiến đấu, các khu vực phòng thủ vững chắc; xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các tuyến vành đai biên giới trên cơ sở phát triển các đô thị gắn với kinh tế cửa khẩu, nâng cấp các tuyến đường giao thông tới vùng biên quan trọng.

Vùng Tây Nguyên: Là những địa bàn chiến lược quan trọng của cả nước về kinh tế-xã hội quốc phòng, an ninh. Vì vậy, cần có chiến lược quy hoạch, kế hoạch và lộ trình xây dựng các vùng chiến lược trọng điểm, đặc biệt là khu vực Tây Nguyên, xây dựng Tây Nguyên giầu về kinh tế, vững mạnh về quốc phòng, an ninh, tiến tới trở thành vùng kinh tế động lực. Giải quyết có hiệu quả các vấn đề bức xúc của Nhân dân, có chính sách thích hợp thu hút vốn đầu tư, bố trí dân cư, lao động và đất đai theo quy hoạch, nâng cao dân trí và trình độ công nghệ. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, khắc phục tình trạng dân di cư tự do...

Vùng đồng bằng sông Cửu Long: Đây là vùng rộng lớn, đông dân cư, có tiềm năng thế mạnh về phát triển nông nghiệp; đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản lớn nhất cả nước; có tiềm năng lớn về dầu khí và du lịch; có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh. Trong kết hợp kinh tế với quốc phòng cần tập trung đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển mạng lưới giao thông gắn với quy hoạch chống lũ. Hình thành cho được các tuyến giao thông trục dọc nối đồng bằng sông Cửu Long với Đông Nam Bộ và cả nước; nâng cấp tất cả các tuyến quốc lộ và tỉnh lộ, xây dựng các tỉnh lộ và huyện lộ quan trọng, tạo thành hệ thống giao thông thông suốt trên toàn vùng ngập lũ, bảo đảm đi lại bình thường của người dân trong mùa lũ, xây dựng các cụm, tuyến dân cư; thực hiện chính sách ưu tiên cho đồng bào nghèo, những người có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn...

Vùng biển đảo: Là vùng có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh và môi trường sống. Vì vậy, tập trung xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển gắn với xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh bảo vệ biển, đảo một cách cơ bản, lâu dài. Có kế hoạch và chính sách đầu tư thỏa đáng các mặt cần thiết để đảm bảo đưa dân ra làm ăn và cư trú ổn định ở các đảo gần bờ. Có chính sách mở rộng liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài về khai thác dầu khí, đánh bắt thủy hải sản, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chú trọng đầu tư phát triển chương trình đánh bắt xa bờ với tổ chức các tập đoàn, lực lượng luân phiên có mặt trên toàn bộ lãnh hải của ta. Tổ chức đưa dân ra các đảo nhưng phải đảm bảo các cơ sở dịch vụ, có chính sách thích đáng bảo đảm cho dân trụ vững, làm cơ sở xây dựng các điểm phòng thủ; xây dựng các huyện đảo, các đảo lớn thành những trung tâm kinh tế, du lịch, dịch vụ và là đài quan sát, điểm phòng thủ vững chắc trên biển...

Xây dựng, phát triển các khu kinh tế quốc phòng: Xây dựng các khu kinh tế quốc phòng, các khu quốc phòng kinh tế trên các địa bàn chiến lược biên giới để vừa phát triển kinh tế-xã hội vừa củng cố quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Trong thời gian tới Nhà nước cần đầu tư thỏa đáng hơn nữa về ngân sách với tiến độ phù hợp cho nhiệm vụ này, lồng ghép các chương trình, các dự án để xây dựng các khu kinh tế-quốc phòng ở vùng biên giới, hải đảo; có chính sách đặc biệt phát triển kinh tế, nâng cao đời sống Nhân dân tại các khu vực có yêu cầu đặc thù về quốc phòng, an ninh.

3. Kết hợp trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế chủ yếu.

a) Kết hợp trong công nghiệp

- Kết hợp quy hoạch bố trí các đơn vị kinh tế của ngành công nghiệp.

- Tập trung đầu tư một số ngành công nghiệp liên quan đến quốc phòng

- Phát triển công nghiệp quốc gia theo hướng mỗi nhà máy, xí nghiệp vừa có thể sản xuất hàng dân dụng, vừa có thể sản xuất hàng quân sự.

- Các nhà máy công nghiệp quốc phòng trong thời bình phải tham gia sản xuất hàng dân sự chất lượng cao

- Mở rộng liên doanh, liên kết với các nước tiên tiến trên thế giới, ưu tiên những ngành, lĩnh vực công nghiệp có tính lưỡng dụng cao

- Thực hiện chuyển giao công nghệ hai chiều từ công nghiệp quốc phòng vào công nghiệp dân dụng và ngược lại

- Phát triển hệ thống phòng không công nghiệp và phát triển lực lượng tự vệ

- Xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp quốc phòng

b) Kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp

- Kết hợp khai thác có hiệu quả tiềm năng đất, rừng, biển đảo và lực lượng lao động để phát triển đa dạng các ngành nghề theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

- Kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp gắn với việc giải quyết tốt vấn đề xã hội

- Đẩy mạnh phát triển rồng rừng gắn với công tác định canh, định cư, xây dựng các cơ sở chính trị vững mạnh ở vùng rừng núi biên giới.

c) Kết hợp trong giao thông vận tải, bưu điện, y tế, khoa học-công nghệ, giáo dục và xây dựng cơ bản

- Trong giao thông vận tải: Phát triển hệ thống giao thông vận tải đồng bộ cả đường bộ, đường sắt, đường không, đường thuỷ, đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hoá trong nước và mở rộng giao lưu với nước ngoài. Trong xây dựng các mạng đường bộ, cần chú trọng mở rộng, nâng cấp các tuyến đường trục Bắc-Nam với tuyến đường trục dọc Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh. Trong thiết kế, thi công các công trình giao thông vận tải, đặc biệt là các tuyến vận tải chiến lược, phải tính đến cả nhu cầu hoạt động thời bình và thời chiến. Xây dựng kế hoạch động viên giao thông vận tải cho thời chiến.

- Trong bưu chính viễn thông: Phải kết hợp chặt chẽ giữa ngành bưu điện quốc gia với ngành thông tin quân đội, công an để phát triển hệ thống thông tin quốc gia hiện đại, đảm bảo nhanh chóng, chính xác, an toàn thông tin liên lạc phục vụ lãnh đạo chỉ huy, điều hành đất nước trong mọi tình huống, cả thời bình và thời chiến. Các phương tiện thông tin liên lạc và điện tử phải được bảo đảm bí mật và có khả năng chống nhiễu cao, phòng chống chiến tranh thông tin điện tử của địch. Khi hợp tác với nước ngoài về việc xây dựng, mua sắm các thiết bị thông tin điện tử phải cảnh giác cao. Xây dựng kế hoạch động viên thông tin liên lạc cho thời chiến

- Trong xây dựng cơ bản: Khi xây dựng bất cứ công trình nào, ở đâu, qui mô nào cũng phải tính đến yếu tố tự bảo vệ và có thể chuyển hoá phục vụ được cho cả quốc phòng, an ninh, cho phòng thủ tác chiến và phòng thủ dân sự. Xây dựng các thành phố, đô thị phải gắn với các khu vực phòng thủ địa phương, phải xây dựng các công trình ngầm. Xây dựng các khu công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp lớn phải tính đến khả năng bảo vệ và di dời khi cần thiết, hạn chế xâm phạm địa hình có giá trị về phòng thủ quân sự, quốc phòng, an ninh. Nghiên cứu, sáng chế, chế tạo các loại vật liệu siêu bền để phục vụ cho các công trình phòng thủ tỉnh, thành phố, công trình quân sự

- Trong khoa học và công nghệ, giáo dục: Phải phối hợp chặt chẽ và toàn diện hoạt động giữa các ngành khoa học và công nghệ then chốt của cả nước với các ngành khoa học của quốc phòng, an ninh trong việc hoạch định chiến lược nghiên cứu phát triển và quản lí sử dụng phục vụ cho cả xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiên cứu đề ra các chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân có đề tài khoa học, dự án công nghệ và sản xuất các dự án vừa phục vụ nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vừa phục vụ nhu cầu quốc phòng, an ninh. Coi trọng giáo dục và bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài đáp ứng cả yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh

- Trong lĩnh vực y tế: Phối hợp, kết hơp chặt chẽ giữa ngành y tế dân sự với y tế quân sự, an ninh trong đào tạo nhân lực, nghiên cứu, ừng dụng khoa học và trong khám chữa bệnh. Xây dựng mô hình quân dân y kết hợp trên các địa bàn, đặc biệt là ở miền núi, biên giới, hải đảo. Xây dựng kế hoạch động viên y tế dân sự cho quân sự khi có chiến tranh. Phát huy vai trò của y tế quân sự trong phòng chống, khám chữa bệnh cho nhân dân

d) Kết hợp trong thực hiện nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc

- Tổ chức biên chế và bố trí lực lượng vũ trang phải phù hợp với điều kiện kinh tế và nhu cầu phòng thủ đất nước.

- Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất trong huấn luyện, chiến đấu và sãn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang.

- Xây dựng phát triển các khu kinh tế quốc phòng trên địa bàn miền núi, biên giới, giúp dân ổn định sản xuất, đời sống, phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn

- Các cơ quan quân sự, công an phải làm tham mưu trong việc thẩm định, đánh giá các dự án đầu tư, nhất là các dự án có vốn nước ngoài

e) Kết hợp trong hoạt động đối ngoại

Đại hội XII của Đảng đã đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế giữ vững môi trường hòa bình và tạo điều thuận lợi để phát triển đất nước.

- Mở rộng hoạt động đối ngoại phải quán triệt và thực hiện tốt nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; hợp tác bình đẳng, cùng có lợi; giữ gìn bản sắc dân tộc, giải quyết các tranh chấp bằng đàm phán hoà bình.

- Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, phải kết hợp từ khâu lựa chọn đối tác. Phải lựa chọn được đối tác có ưu thế chế ngự cạnh tranh với các thế lực mạnh bên ngoài, làm hạn chế sự chống phá của các thế lực thù địch.

- Kết hợp trong việc phân bổ đầu tư vào ngành nào, địa bàn nào có lợi cho phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh của các quốc gia. Khắc phục tình trạng chỉ thấy lợi ích kinh tế trước mắt mà không tính đến lợi ích lâu dài và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

- Phát huy vai trò của cán bộ, nhân viên các đại sứ quán, lãnh sự quán của nước ta ở nước ngoài trong việc quảng bá sản phẩm hàng hoá, truyền thống Việt Nam; đồng thời nắm vững đường lối đối ngoại, đường lối quân sự của nước ngoài cung cấp tình hình giúp Đảng, Nhà nước hoạch định chính sách đối ngoại đúng đắn.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG, CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý Nhà nước của chính quyền các cấp trong thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòmg an ninh

- Vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong việc kết hợp

+ Thường xuyên nắm vững chủ trương đường lối của Đảng, kịp thời đề ra những quyết định lãnh đạo ngành, địa phương mình, thực hiện kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh một cách đúng đắn.

+ Gắn chủ trương lãnh đạo với tăng cường kiểm tra việc thực hiện của chính quyền, đoàn thể, các tổ chức kinh tế thực hiện chủ trương đường lối về kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh.

+ Tổ chức tốt việc sơ, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để bổ sung chủ trương và chỉ đạo thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh ở ngành, địa phương thuộc phạm vi lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng

- Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước của chính quyền các cấp trong việc kết hợp:

+ Từng cấp làm đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.  

+ Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các quy hoạch, kế hoạch kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh ở ngành, bộ, địa phương cơ sở của mình dài hạn và hàng năm.

+ Đổi mới nâng cao quy trình, phương pháp quản lý, điều hành của chính quyền các cấp từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch, nắm tình hình, thu thập xử lý thông tin, định hướng hoạt động, tổ chức hướng dẫn chỉ đạo cấp dưới và kiểm tra ở mọi khâu, mọi bước của quá trình thực hiện.

2. Bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kinh nghiệm kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh cho các đối tượng

- Đối tượng bồi dưỡng: Phải phổ cập kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân nhưng trước hết phải tập trung vào đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, các bộ, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, cơ sở

- Nội dung bồi dưỡng: Phải căn cứ vào đối tượng, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để chọn lựa nội dung, chương trình bồi dưỡng cho phù hợp.

- Hình thức bồi dưỡng: Phải kết hợp bồi dưỡng tại trường với tại chức, kết hợp lý thuyết với thực hành, để nâng sự hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ và của toàn dân, toàn quân.

3. Xây dựng chiến lược cụ thể kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh trong thời k mới

- Sự vận dụng quy luật kinh tế, quốc phòng và an ninh, quán triệt quan điểm đường lối của Đảng đề ra còn nhiều mâu thuẫn và bất cập do thiếu định hướng chiến lược cơ bản cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Vì vậy, muốn kết hợp ngay từ đầu và trong suốt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách cơ bản và thống nhất trên phạm vi của cả nước và từng địa phương, phải tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh các quy hoạch và kế hoạch chiến lược tổng thể quốc gia và kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh.

- Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch chiến lược tổng thể về phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong thời kỳ mới, phải có sự phối hợp giữa các bộ, nghành, địa phương từ khâu khảo sát, đánh giá các nguồn lực. Trên cơ sở đó xác định mục tiêu, phương hướng phát triển và đề ra các chính sách đúng đắn, như: chính sách khai thác các nguồn lực, chính sách đầu tư và phân bổ đầu tư; chính sách điều động nhân lực, bố trí dân cư, chính sách ưu đãi khoa học và công nghệ…

4. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách có liên quan đến thực hiện kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh trong tình hình mới

- Mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan đến kết hợp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh đều phải thể chế hoá thành luật pháp, pháp lệnh, nghị định,… một cách đồng bộ, thống nhất để quản lý và tổ chức thực hiện nghiêm túc có hiệu lực và hiệu quả trong cả nước.

- Đảng và Nhà nước phải có chính sách khai thác các nguồn lực và vốn đầu tư trong và ngoài nước để thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh, nhất là đối với các công trình trọng điểm, ở những địa bàn chiến lược trọng yếu như miền núi biên giới và hải đảo

- Việc xác lập cơ chế chính sách, bảo đảm ngân sách cho kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh cần phải được xây dựng theo quan điểm quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.

- Phải có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với các tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư (cả trong và ngoài nước) có các đề tài khoa học, các dự án công nghệ sản xuất, xây dựng có hiệu quả cao phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

5. Củng cố kiện toàn và phát huy vai trò tham mưu của cơ quan chuyên trách quốc phòng và an ninh các cấp

- Căn cứ Nghị định số 119/2004/NĐ-CP ngày 11/05/2004 của Chính phủ về công tác quốc phòng ở các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương, các cấp có thẩm quyền cần nghiên cứu bổ sung mở rộng thêm chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về quốc phòng và an ninh nói chung và kết hợp phát triển kinh tế-xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh nói riêng trong thời kỳ mới.

- Kết hợp chặt chẽ giữa chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức với chăm lo bồi dưỡng nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ chyên trách làm tham mưu cho Đảng, Nhà nước về thực hiện kết hợp phát iển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.

KẾT LUẬN

Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng và an ninh là một tất yếu khách quan, một nội dung quan trọng trong đường lối phát triển đất nước của Đảng ta, nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược. Việc kết hợp được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế và có sự phối hợp của các ngành, các cấp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp.

Để thực hiện tốt việc kết hợp, cần quán triệt và thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó phải quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng cho toàn dân, nhất là cho sinh viên. Quá trình kết hợp phải được triển khai có kế hoạch, có cơ chế chính sách cụ thể, chặt chẽ, đồng bộ.

Sinh viên cần học tập, nghiên cứu nâng cao nhận thức về sự tất yếu của việc kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh. Từ đó xác định nghĩa vụ trách nhiệm công dân; học tập tốt, rèn luyện toàn diện; tham gia tích cực các hoạt động quốc phòng và an ninh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Phân tích tất yếu phải kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh ở nước ta hiện nay?

2. Nội dung, phương thức kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh ở nước ta hiện nay?

3. Phân tích các giải pháp chủ yếu thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh ở Việt Nam hiện nay?

 

Bài 7

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỊCH SỬ

NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM

--------------------

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã trải qua một chặng đường dài chiến đấu và chiến thắng giặc ngoại xâm, lập nên những chiến công huyền thoại trong lịch sử hào hùng của dân tộc. Từ thực tiễn và kinh nghiệm chống giặc ngoại xâm, ông cha ta đã hình thành một nền nghệ thuật quân sự độc đáo, đó là nghệ thuật phát huy sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, nghệ thuật quân sự Việt Nam được nâng lên một tầm cao mới, đó là nghệ thuật chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, là nghệ thuật huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại, mà đỉnh cao là chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đây chính là di sản vô cùng quý giá để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta học tập và vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

 

I. TRUYỀN THỐNG VÀ NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC CỦA ÔNG CHA

1. Đất nước trong buổi đầu lịch sử

Cách đây mấy nghìn năm, từ khi các vua Hùng mở nước Văn Lang, lịch sử dân tộc Việt Nam bắt đầu thời đại dựng nước và giữ nước. Do yêu cầu tự vệ trong chống giặc ngoại xâm và do yêu cầu làm thủy lợi của nền kinh tế nông nghiệp đã tác động mạnh mẽ đến sự hình thành nhà nước của buổi đầu lịch sử. Nhà nước Văn Lang là nhà nước đầu tiên của nước ta có lãnh thổ bao gồm vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay, nằm trên đầu mối những đường giao thông qua bán đảo Đông Dương và vùng Đông Nam Á. Nền văn minh sông Hồng mà đỉnh cao là văn hóa Đông Sơn rực rỡ, thành quả đáng tự hào của thời đại Hùng Vương.

Vì có vị trí địa lý thuận lợi nên nước ta luôn bị các thế lực ngọai xâm nhòm ngó, đe dọa vận mệnh đất nước. Do vậy, yêu cầu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập và cuộc sống đã sớm xuất hiện. Để bảo vệ được độc lập, cuộc sống và nền văn hóa của mình chỉ có con đường duy nhất là đòan kết đứng lên đánh giặc, giữ nước.

2. Những yếu tố tác động đến việc hình thành nghệ thuật đánh giặc

a) Về địa lý

- Nước ta có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực Đông Nam Á và biển Đông

- Chúng ta có hệ thống giao thông đường bộ, đường biển, đường sông, đường không bảo đảm giao lưu trong khu vực châu Á và thế giới thuận lợi

- Đã từ lâu nhiều kẻ thù đã nhòm ngó, đe doạ và tiến công xâm lược nước ta

- Ông cha ta đã phát huy tối đa ưu thế của địa hình để lập thế trận đánh giặc.

b) Về kinh tế

- Kinh tế nước ta là tự cung tự cấp, sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó trồng trọt, chăn nuôi là chủ yếu, trình độ canh tác thấp

- Quá trình phát triển, tổ tiên ta đã kết hợp chặt chẽ tư tưởng dựng nước phải đi đôi với giữ nước, thực hiện nhiều kế sách như: “quốc phú, binh cường”, “ngụ binh ư nông”…

- Tích cực phát triển sản xuất, chăn nuôi để ổn định, nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời phát huy tính sáng tạo trong lao động, tự tạo ra vũ khí để chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc

c) Về chính trị, văn hoá - xã hội

- Chúng ta có 54 dân tộc anh em chung sống hoà thuận, đoàn kết. Dân tộc ta đã sớm xây dựng được Nhà nước, xác định chủ quyền lãnh thổ, tổ chức ra quân đội để cùng toàn dân đánh giặc, xây dựng và bảo vệ đất nước

- Dân tộc ta đã xây dựng được nền văn hoá: đoàn kết, yêu nước thương nòi, sống hoà thuận, thuỷ chung, lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng, kiên cường, bất khuất; một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc với kết cấu vững chắc: đất nước bao gồm làng, xã, thôn, bản và có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi làng, xã, thôn bản có phong tục tập quán riêng.

3. Các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược

a) Những cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên

- Cuộc kháng chiến chống quân Tần: trước năm 214 trước công nguyên, dưới sự lãnh đạo của vua Hùng và vua Thục Phán.

- Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của Triệu Đà, từ năm 184 đến 179 trước công nguyên, do An Dương Vương lãnh đạo bị thất bại

- Đất nước ta rơi vào thảm họa hơn một nghìn năm phong kiến Trung Hoa đô hộ, lịch sử gọi là thời kỳ Bắc thuộc.

b) Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược giành và giữ độc lập từ thế kỷ II trước công nguyên đến đầu thế kỷ X

- Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào năm 40, đã giành được độc lập và giữ vững được trong 3 năm.

- Năm 248, cuộc khởi nghĩa của bà Triệu Thị Trinh, nhưng bị thất bại

- Năm 542 là cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn lật đổ chính quyền nhà Lương, giành thắng lợi, Lý Bôn lên ngôi hoàng đế (Lý Nam Đế), đặt quốc hiệu là Vạn Xuân

- Khởi nghĩa của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến năm 687

- Khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) năm 722

- Khởi nghĩa Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương) từ năm 766 đến 791.

- Trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã cùng quân và dân ta giành lại được độc lập kết thúc hơn một nghìn năm Bắc thuộc, đất nước ta mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên của độc lập, tự chủ.

c) Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII

- Kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất của nhà Tiền Lê năm 981

- Cuộc kháng chiến chống Tống lần 2 (1075- 1077) của nhà Lý

- Ba lần kháng chiến chống quân Nguyên của nhà Trần ở thế kỷ XIII

- Cuộc kháng chiến lần thứ nhất vào năm 1258, đánh thắng 3 vạn quân Nguyên

- Cuộc kháng chiến lần thứ hai vào năm 1285, đánh thắng 60 vạn quân Nguyên

- Cuộc kháng chiến lần thứ ba vào năm 1287 - 1288, đánh thắng 50 vạn quân Nguyên

- Cuộc kháng chiến chống quân Minh do Hồ Quý Ly lãnh đạo, cuối thế kỷ XIV thất bại, đất nước ta một lần nữa bị phong kiến phương Bắc đô hộ.

- Khởi nghĩa Lam Sơn và chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi, Nguyễn Trãi lãnh đạo (1418 - 1427)

- Khởi nghĩa Tây Sơn và các cuộc kháng chiến chống quân Xiêm 1784 - 1785, kháng chiến chống quân xâm lược Mãn Thanh 1788 - 1789

4. Nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta

a) Về tư tưởng chỉ đạo tác chiến

- Ông cha ta luôn nắm vững tư tưởng tiến công, tiến công liên tục, mọi lúc mọi nơi, từ cục bộ đến toàn bộ, coi đó như là một quy luật để giành thắng lợi.

- Tư tưởng tiến công được xem như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình chuẩn bị và tiến hành chiến tranh giữ nước.

- Tư tưởng đó thể hiện rất rõ trong đánh giá đúng kẻ thù, chủ động đề ra kế sách đánh, phòng, khẩn trương chuẩn bị lực lượng kháng chiến, tìm mọi biện pháp làm cho địch suy yếu, tạo ra thế và thời cơ có lợi để tiến hành phản công, tiến công.

b) Về mưu kế đánh giặc

- Mưu là để lừa địch, đánh vào chỗ yếu, chỗ sơ hở, chỗ ít phòng bị, làm cho chúng bị động, lúng túng đối phó.

- Kế là để điều địch theo ý định của ta, giành quyền chủ động, buộc chúng phải đánh theo cách đánh của ta

- Kế sách đánh giặc của ông cha ta không những sáng tạo mà còn rất mềm dẻo, khôn khéo đó là “biết tiến, biết thoái, biết công, biết thủ”, biết kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với binh vận, ngoại giao, tạo thế mạnh cho ta, biết phá thế mạnh của giặc, trong đó tiến công luôn giữ vai trò quyết định.

- Ông cha ta đã phát triển mưu, kế đánh giặc, biến cả nước thành một chiến trường, tạo ra một “thiên la, địa võng” để diệt địch, làm cho “địch đông mà lại hoá ít, địch mạnh mà hoá yếu”, đi dến đâu cũng bị đánh, luôn bị tập kích, phục kích, lực lượng bị tiêu hao, tiêu diệt, rơi vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”.

c) Nghệ thuật chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc

- Thực hiện toàn dân đánh giặc là một trong những nét độc đáo trong nghệ thuật quân sự của tổ tiên ta, được thể hiện cả trong khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng. Nét độc đáo đó xuất phát từ lòng yêu nước thương nòi của nhân dân ta, từ tính chất tự vệ, chính nghĩa của các cuộc kháng chiến. Hễ kẻ thù động đến nước ta thì “vua tôi đồng lòng, anh em hoà mục, cả nước chung sức, trăm họ là binh”, giữ vững quê hương, bảo vệ xã tắc.

- Nội dung cơ bản của thực hiện toàn dân đánh giặc là: “Mỗi người dân là một người lính, đánh giặc theo cương vị, chức trách của mình. Mỗi thôn, xóm, bản, làng là một pháo đài diệt giặc. Cả nước là một chiến trường, tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân liên hoàn, vững chắc làm cho địch đông mà hoá ít, địch mạnh mà hoá yếu, rơi vào trạng thái bị động, lúng túng và bị sa lầy.”

d) Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh

- Đây là nét đặc sắc và tất yếu trong nghệ thuật quân sự của ông cha ta khi dân tộc ta phải chống lại đội quân xâm lược có quân số, vũ khí, trang bị lớn hơn nhiều lần. quân nhà Lý có 10 vạn, đánh thắng 30 vạn quân xâm lược Tống lần thứ hai; quân nhà Trần có 15 vạn, đánh thắng 60 vạn giặc Nguyên Mông lần thứ hai và 30 vạn giặc Nguyên Mông lần thứ ba; quân nhà Lê (Lê Lợi) có 10 vạn, đánh thắng 80 vạn giặc Minh; quân nhà Tây Sơn có 10 vạn, đánh thắng 29 vạn giặc Mãn Thanh

- Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh chính là sản phẩm của lấy “thế” thắng “lực”. Ông cha ta đã sớm xác định đúng về sức mạnh trong chiến tranh đó là: sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, chứ không đơn thuần là sự so sánh, hơn kém về quân số, vũ khí của mỗi bên tham chiến.

e) Nghệ thuật kết hợp đấu tranh giữa các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao và binh vận

- Mặt trận chính trị nhằm cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân, quy tụ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, là cơ sở tạo ra sức mạnh quân đội

- Mặt trận quân sự là mặt trận quyết liệt nhất, thực hiện tiêu diệt sinh lực, phá huỷ phương tiện chiến tranh của địch, quyết định thắng lợi trực tiếp của chiến tranh, tạo đà, tạo thế cho các mặt trận khác phát triển

- Mặt trận ngoại giao có vị trí rất quan trọng, đề cao tính chính nghĩa của nhân dân ta, phân hoá, cô lập kẻ thù, tạo thế có lợi cho cuộc chiến. Mặt khác, mặt trận ngoại giao kết hợp với mặt trận quân sự, chính trị tạo ra thế có lợi để kết thúc chiến tranh càng sớm càng tốt.

- Mặt trận binh vận để vận động làm tan rã hàng ngũ của giặc, góp phần quan trọng để hạn chế thấp nhất tổn thất của nhân dân ta trong chiến tranh

f) Về nghệ thuật tổ chức và thực hành các trận đánh lớn

- Thời nhà Lý: trận phòng ngự sông Cầu (Như Nguyệt), đây là điển hình về kết hợp chặt chẽ hai hình thức tác chiến phòng ngự và phản công trên cả quy mô chiến lược, chiến thut. Kết quả không những chặn đứng được 30 vạn quân Tống mà còn làm thất bại ý đồ đánh nhanh thắng nhanh để chiếm Thăng Long của chúng, khiến chúng phải chuyển từ thế chủ động sang thế bị động phòng ngự

- Thời nhà Trần: chống giặc Nguyên lần 2, Trần Quốc Tuấn đẫ tổ chức một cuộc rút lui chiến lược, làm thất bại kế hoạch vây hợp của địch. Trong cuộc truy đuổi, quân Nguyên còn vấp phải một cuộc chiến tranh của toàn dân Đại Việt. Do vậy, quân Nguyên bị sa vào tình trạng muốn đánh mà không đánh được, “lực càng yếu, thế càng suy”, tạo điều kiện cho ta phản công.

- Thời hậu Lê: khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó nghệ thuật tổ chức và tiến hành các trận đánh quyết định giữ một vai trò rất quan trọng. Nguyễn Trãi và Lê Lợi chủ trương “lánh chỗ thực, đánh chỗ hư, tránh nơi vững chắc, đánh nơi sơ hở”. Việc lựa chọn rất đúng mục tiêu tiến công chiến lược và kiệt xuất trong tổ chức, thực hành trận quyết chiến Chi Lăng - Xương Giang, buộc giặc trong thành Đông Quan không đánh mà bị bắt đã chứng tỏ tài năng quân sự xuất sắc trong tổ chức và thực hành các trận đánh lớn của ông cha ta.

- Thời Quang Trung: nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ và quân Tây Sơn được biểu hiện tập trung nhất, rực rỡ nhất trong việc tổ chức và thực hành các trận quyết chiến chiến lược. Nguyễn Huệ đã thiết lập một hệ thống tổ chức hành quân đạt hiệu quả tối đa, chú trọng hợp vây chiến dịch, chiến thuật và tiến công địch.

II. NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM TỪ KHI CÓ ĐẢNG LÃNH ĐẠO

1. Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam

- Truyền thống đánh giặc của tổ tiên

Trải qua mấy nghìn năm chống giặc ngoại xâm, nghệ thuật quân sự của tổ tiên đã hình thành và không ngừng phát triển, trở thành những bài học quí giá cho các thế hệ sau. Những kinh nghiệm đó là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kế thừa, vận dụng và phát triển trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

- Chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc

Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ Nam cho mọi hành động. Học thuyết chiến tranh, quân đội, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và kinh nghiệm nghệ thuật quân sự được đúc rút qua các cuộc chiến tranh do C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.Lênin tổng kết, là cơ sở để Đảng ta vận dụng, định ra đường lối quân sự trong khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng ở Việt Nam.

- Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh

Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là sự tiếp thu, kế thừa truyền thống đánh giặc của tổ tiên, vận dụng lý luận Mác-Lênin về quân sự, kinh nghiệm của các nước trên thế giới vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, là cơ sở cho sự hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam. Hồ Chí Minh và Đảng đã đề ra phương châm chỉ đạo chiến tranh, phương thức tác chiến chiến lược, nắm bắt đúng thời cơ, đưa chiến tranh Việt Nam kết thúc thắng lợi.

2. Nội dung nghệ thuật quân sự Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo

a) Chiến lược quân sự

Chiến lược quân sự là tổng thể phương châm, chính sách và mưu lược được hoạch định để ngăn ngừa và sẵn sàng tiến hành chiến tranh (xung đột vũ trang) thắng lợi, là bộ phận hợp thành (quan trọng nhất) có tác dụng chủ đạo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Nội dung chủ yếu của chiến lược quân sự

- Xác định đúng kẻ thù, đúng đối tượng tác chiến: Đây là vấn đề quan trọng của chiến tranh cách mạng, nhiệm vụ của chiến lược quân sự phải xác định chính xác để từ đó có đối sách và phương thức đối phó hiệu quả nhất.

+ Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, lúc đó xuất hiện nhiều kẻ thù: Anh, Tưởng, Ấn Độ, Nhật và quân Pháp. Trước tình hình đó Đảng ta xác định kẻ thù nguy hiểm trực tiếp của cách mạng Việt Nam là thực dân Pháp.

+ Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, khi đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, tạo cớ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở Việt Nam, Đảng ta nhận định đế quốc Mỹ đang trở thành kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm của Việt Nam, Lào và Campuchia.

- Đánh giá đúng kẻ thù: Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích, đánh giá đúng mạnh, yếu của kẻ thù. Từ những nhận định đúng đắn về kẻ thù đã tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân ta quyết tâm đánh Pháp, Mỹ và biết thắng Pháp, Mỹ.

+ Bước vào kháng chiến chống Pháp, Đảng ta phân tích so sánh lực lượng cho rằng: “Lực lượng của Pháp như mặt trời lúc hoàng hôn, hống hách lắm nhưng đã gần tắt nghỉ”, còn “lực lượng của ta ngày càng thêm mạnh, như suối mới chảy, như lửa mới nhen, chỉ có tiến...”.

+ Đối với đế quốc Mỹ, dù có quân đông, súng tốt, tiền nhiều nhưng điểm yếu căn bản là ở xa đến xâm lược, Đảng ta đã nhận định “Mỹ giàu nhưng không mạnh”.

- Mở đầu và kết thúc chiến tranh đúng lúc: Đây là một vấn đề mang tính nghệ thuật cao trong chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta, nhằm giành thắng lợi trọn vẹn nhất những hạn chế tổn thất đến mức thấp nhất. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chúng ta mở đầu chiến tranh vào những thời điểm đáp ứng mọi điều kiện của hoàn cảnh lịch sử, do đó đã lôi cuốn được toàn dân tộc và sức thuyết phục đối với quốc tế.

+ Trong kháng chiến chống Pháp, mở đầu chiến tranh vào ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, đây là thời điểm không thể lùi được nữa sau các hành động thiện chí nhằm ngăn ngừa, không để chiến tranh xảy ra, “Chúng ta càng nhân nhượng, giặc Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa...”. Thời điểm kết thúc chiến tranh là sau khi giành thắng lợi ở chiến dịch Điện Biên Phủ.

+ Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta chọn đúng thời điểm sau năm 1960, chuyển từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng ở miền Nam và không cho đế quốc Mỹ tạo cớ phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Thời điểm kết thúc chiến tranh đánh cho Mỹ cút là đánh thắng tập kích chiến lược bằng B-52 của Mỹ trên bầu trời miền Bắc, đó là một “Điện Biên Phủ trên không”, kết thúc chiến tranh là thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

- Phương châm tiến hành chiến tranh: Đảng ta chỉ đạo tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, văn hoá, ngoại giao…trong đó, mặt trận quân sự giữ vai trò quyết định nhất. Đảng ta chỉ đạo tiến hành chiến tranh với tinh thần “tự lực cách sinh, đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính”.

- Phương thức tiến hành chiến tranh: Cuộc chiến tranh chống quân xâm lược của nước ta là chiến tranh cách mạng, chính nghĩa và tự vệ. Do đó Đảng ta chỉ đạo: phương thức tiến hành chiến tranh là chiến tranh nhân dân kết hợp giữa địa phương với các binh đoàn chủ lực, kết hợp chặt chẽ tiến công địch bằng hai lực lượng chính trị, quân sự.

b) Nghệ thuật chiến dịch

Nghệ thuật chiến dịch là lý luận và thực tiễn chuẩn bị, thực hành chiến dịch và các hoạt động tác chiến tương đương; bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự, khâu nối liền giữa chiến lược quân sự và chiến thuật. Sự hình thành chiến dịch và phát triển của nghệ thuật chiến dịch, bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự Việt Nam là toàn diện, tập trung vào những vấn đề chủ yếu:

- Loại hình chiến dịch

+ Chiến dịch tiến công (chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, chiến dịch tiến công Tây Nguyên, chiến dịch Hồ Chí Minh trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975).

+ Chiến dịch phản công: Chiến dịch phản công Việt Bắc năm 1947, chiến dịch phản công đường số 9- Nam Lào năm 1971

+ Chiến dịch phòng ngự: chiến dịch phòng ngự Quảng Trị năm 1972

+ Chiến dịch phòng không: chiến dịch phòng không Hà Nội năm 1972

+ Chiến dịch tiến công tổng hợp: chiến dịch tiến công tổng hợp khu 8

- Quy mô chiến dịch

+ Trong kháng chiến chống Pháp, thời kỳ đầu quy mô chiến dịch còn rất nhỏ bé (lực lượng tham gia khoảng 1 - 3 trung đoàn). Đến cuối cuộc kháng chiến, trong chiến dịch Điện Biên Phủ lực lượng tham gia lên tới 5 đại đoàn cùng nhiều lực lượng khác.

+ Trong kháng chiến chống Mỹ, giai đoạn đầu lực lượng chỉ từ 1 đến 2 trung đoàn, sau đó phát triển đến sư đoàn. Đến cuối cuộc kháng chiến, trong chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng tham gia 5 quân đoàn và nhiều binh chủng, quân chủng khác, phối hợp chặt chẽ với nổi dậy của qun chúng nhân dân.

+ Trong hai cuộc kháng chiến, ở những giai đoạn đầu, các chiến dịch diễn ra chủ yếu ở rừng núi, nhưng giai đoạn cuối đã diễn ra trên tất cả địa hình.

- Nghệ thuật chiến dịch là cách đánh chiến dịch

+ Thời kỳ đầu, chúng ta có nghệ thuật chọn khu vực tác chiến chủ yếu, nghệ thuật chuẩn bị thế trận chiến dịch, nghệ thuật tập trung ưu thế lực lượng bảo đảm chắc thắng trận mở màn chiến dịch, nghệ thuật xử trí chính xác các tình huống trong tác chiến chiến dịch.

+ Trong chiến dịch Điện Biên Phủ: (1) Xác định đúng phương châm tác chiến chiến dịch, thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”; (2) Xây dựng thế trận chiến dịch vững chắc, thực hiện bao vây rộng lớn, chia cắt và cô lập Điện Biên Phủ với các chiến trường khác; (3) Phát huy cao nhất sức mạnh tác chiến hợp đồng các binh chủng, tập trung ưu thế binh hoả lực đánh dứt điểm từng trận then chốt; (4) Vận dụng sáng tạo cách đánh chiến dịch, dựa vào hệ thống trận địa, thực hành vây hãm kết hợp với đột phá, kết hợp đánh chính diện với các mũi thọc sâu, luồn sâu, tạo thế chia cắt địch.

+ Trong kháng chiến chống Mỹ: Nghệ thuật chiến dịch đã nâng lên một tầm cao mới. Nghệ thuật chiến dịch đã chỉ đạo chiến thuật đánh bại tất cả các chiến lược quân sự, biện pháp, thủ đoạn tác chiến của quân Mỹ, Ngụy và chư hầu. Đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, nghệ thuật chiến dịch có buớc nhảy vọt, được thể hiện: (1) Nghệ thuật tạo ưu thế lực lượng, bảo đảm đánh địch trên thế mạnh, hình thành sức mạnh áp đảo địch trong chiến dịch; (2) Nghệ thuật vận dụng sáng tạo cách đánh chiến dịch (lần lượt và đồng loạt); (3) Nghệ thuật kết hợp tiến công với nổi dậy, phối hợp tác chiến 3 thứ quân, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích.

c) Chiến thuật

Chiến thuật là lý luận và thực tiễn về tổ chức và thực hành chiến đấu của phân đội, binh đội, binh đoàn lực lượng vũ trang, bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Chiến thuật hình thành, phát triển gắn với lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta. Nội dung của chiến thuật được thể hiện:

- Vận dụng các hình thức chiến thuật vào trong các trận chiến đấu

+ Giai đoạn đầu của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, chiến thuật thường vận dụng là tập kích, phục kích, vận động tiến công trong đó, phục kích có lợi hơn tập kích.

+ Các giai đoạn sau của hai cuộc kháng chiến, bộ đội ta đã trưởng thành, không những giỏi vận động chiến (đánh địch ngoài công sự) mà còn từng bước vận dụng công kiên chiến (đánh địch trong công sự).

+ Giai đoạn cuối của hai cuộc kháng chiến, do yêu cầu của chiến lược, chiến dịch, chiến thuật phòng ngự xuất hiện, ngoài ra còn có các hình thức chiến thuật truy kích, đánh địch đổ bộ đường không.

- Quy mô lực lượng tham gia trong các trận chiến đấu

Giai đoạn đầu của hai cuộc kháng chiến, lực lượng tham gia chủ yếu trong biên chế và được tăng cường một số hoả lực như súng cối 82mm, DKZ… Các giai đoạn sau, quy mô lực lượng tham gia các trận chiến đấu ngày càng lớn, có sự hiệp đồng binh chủng giữa bộ binh, xe tăng, pháo binh, phòng không… Hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ ngày càng nhiều.

- Cách đánh

 Là nội dung quan trọng nhất của lý luận chiến thuật. Mỗi binh chủng, mỗi hình thức chiến thuật đều có những cách đánh cụ thể, phù hợp với đối tượng và địa hình. Cách đánh của ta thể hiện tính tích cực, chủ động tiến công, bám thắt lưng địch, chia địch ra mà đánh, trói địch lại mà diệt. Kết hợp chặt chẽ giữa hành động tiến công và phòng ngự của ba thứ quân để hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao.

III. VẬN DỤNG MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VÀO SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY

1. Quán triệt tư tưởng tích cực tiến công

- Trong lịch sử chiến tranh giữ nước, nghệ thuật quân sự của cha ông ta trước đây luôn nhấn mạnh tư tưởng tích cực, chủ động tiến công địch.

- Ngày nay, kẻ thù của chúng ta là chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, có ưu thế và tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ mạnh, trên cơ sở đánh giá đúng mạnh yếu của địch và ta, chúng ta phải biết phát huy sức mạnh của mọi lực lượng, vận dụng linh hoạt mọi hình thức và quy mô tác chiến, mọi cách đánh mới có thể tiến công địch liên tục, mọi lúc, mọi nơi. Không chỉ tiến công trên mặt trận quân sự mà phải tiến công toàn diện trên mọi mặt trận, đặc biệt là mặt trận chính trị, binh vận, thực hiện “mưu phạt công tâm”, đánh vào lòng người, góp phần thay đổi cục diện chiến tranh.

- Trên cơ sở không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, phát huy long dũng cảm, trí thông minh sáng tạo giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người và vũ khí, nắm vững tư tưởng tích cực tiến công, chúng ta hoàn toàn có thể giành quyền chủ động trên chiến trường và kết thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi nhất.

2. Nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc

- Đây là sự kế thừa và phát huy lên một trình độ mới từ nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nghệ thuật quân sự chỉ đạo mọi hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang nhân dân. Đó là một nguyên tắc trong nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc. Nguyên tắc đó phải được thể hiện cụ thể trong việc xác định phương hướng, mục tiêu, đối tượng và thời cơ tiến công … trong kế hoạch chiến lược, chiến dịch, cũng như từng trận đánh cụ thể.

- Trong hoạt động tác chiến của các lực lượng vũ trang, kết hợp đánh phân tán với đánh tập trung, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn. Mỗi lực lượng, mỗi thứ quân đều có vị trí, tác dụng và có những quy luật hoạt động riêng. Vì vậy, cần phải phối kết hợp tác chiến của các lực lượng, các thứ quân cả về chiến lược cũng như trong chiến dịch và trong chiến đấu. Có kết hợp được như vậy mới phát huy được uy lực của mọi vũ khí từ thô sơ đến hiện đại, làm cho binh lực địch bị phân tán, dàn mỏng, khiến cho chúng đông mà hoá ít, mạnh mà hóa yếu và luôn bị động đối phó, trên cơ sở đó thực hiện những đòn đánh quyết định, tạo sự thay đổi trên chiến trường có lợi cho ta.

3. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời và mưu kế

- Trong đấu tranh vũ trang, trước một đối tượng có sức mạnh vượt trội về quân sự, khoa học công nghệ phải biết kết hợp các yếu tố: lực lượng, thế trận, thời cơ và mưu trí, sáng tạo.

- Dùng lực phải dựa vào thế có lợi, dùng đúng nơi, đúng lúc mới đạt hiệu quả cao, lực nhỏ hoá lớn, yếu hoá mạnh

- Tạo thế, tạo lực để sẵn sàng đánh địch khi thời cơ có lợi nhất. Đặt thế, lực vào đúng thời cơ có lợi thì “sức dùng một nửa mà công được gấp đôi”.

- Muốn đánh thắng còn phải dùng mưu kế, hạn chế cái mạnh của địch, phát huy cái mạnh của ta. Luôn chú ý lừa địch và giữ bí mật, bất ngờ. Đánh bất ngờ, tạo hiệu quả diệt địch, nhất là trong điều kiện lực lượng quân địch mạnh, có vũ khí công nghệ cao.

- Nghệ thuật quân sự của ta còn phải biết đánh giá đúng và triệt để khai thác các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”. Đó là nghệ thuật nắm bắt và phát huy sức mạnh của thời đại, phát huy tiềm năng, thế mạnh của đất nước, con người Việt Nam, trong đó cần đặc biệt chú trọng “nhân hoà”.

- Chỉ có kết hợp chặt chẽ lực, thế, thời, mưu và các yếu tố khác ta mới có thể tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh thắng kẻ thù có kinh tế, quân sự mạnh khi chúng xâm lược nước ta.

4. Quán triệt tư tưởng lấy ít đánh nhiều, biết tập trung ưu thế lực lượng cần thiết để đánh thắng địch

- Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, cha ông ta luôn phải chống lại kẻ thù xâm lược lớn hơn nhiều lần. Đứng trước thực tế đó, ông cha ta đã sáng tạo ra nghệ thuật “lấy ít địch nhiều”, nhưng biết tập trung ưu thế lực lượng trong những thời điểm quan trọng để đánh thắng quân xâm lược.

- Ngày nay, vận dụng tư tưởng lấy ít địch nhiều, ta phải phát huy được khả năng đánh giặc của toàn dân, của cả ba thứ quân, tạo ra sức mạnh tổng hợp hơn địch để đánh thắng địch trong mọi tình thế.

5. Kết hợp tiêu hao, tiêu diệt địch với bảo vệ vững chắc các mục tiêu

- Từng trận đánh, từng chiến dịch có mục đích cụ thể khác nhau, nhưng mục đích chung nhất của mọi hoạt động tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là tiêu diệt lực lượng địch phải đi đôi với bảo vệ vững chắc mục tiêu.

- Muốn giành thắng lợi triệt để, chúng ta phải kết hợp đánh tiêu hao với đánh tiêu diệt lớn quân địch. Đánh tiêu hao rộng rãi bằng đánh nhỏ, đánh vừa của chiến tranh nhân dân địa phương sẽ tạo điều kiện cho tác chiến tập trung của chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực, thực hiện đánh lớn, tiêu diệt quân địch lớn.

- Đi đôi với tiêu hao, tiêu diệt lực lượng của địch, phải bảo vệ vững chắc mục tiêu của ta, là vấn đề có tính quy luật trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

KẾT LUẬN

Nghệ thuật quân sự Việt Nam là sự vận dụng và phát triển sáng tạo truyền thống và nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta; tiếp thu có chọn lọc tinh hoa nghệ thuật quân sự trên thế giới; đặc biệt là vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn các mạng Việt Nam. Đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thế kỷ 20 là chiến thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược thống nhất Tổ quốc cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong tương lai, nếu chiến tranh xảy ra sẽ là cuộc chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, là cuộc chiến tổng lực, chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, hiện đại. Vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu nghệ thuật quân sự vào điều kiện mới để giành thắng lợi, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Phân tích truyền thống và nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên?

2. Trình bày những nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự Việt Nam từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo?

 

Bài 8

XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN

BIỂN, ĐẢO, BIÊN GIỚI QUỐC GIA

--------------------

 

I. XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO QUỐC GIA

Việt Nam là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Lãnh thổ quốc gia Việt Nam là phạm vi không gian được giới hạn bởi biên giới quốc gia, thuộc chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ của quốc gia Việt Nam. Lãnh thổ quốc gia Việt Nam là một chỉnh thể thống nhất, bất khả xâm phạm. Biển, đảo là một bộ phận thiêng liêng của lãnh thổ quốc gia Việt Nam.

1. Khái quát về biển đảo Việt Nam

a) Các vùng biển Việt Nam

Vùng biển Việt Nam là các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với Công ước về Luật Biển 1982, bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tếthềm lục đa; là một bộ phận cấu thành nên lãnh thổ quốc gia Việt Nam.

- Nội thủy là vùng biển nằm ở phía trong đường cơ sở

Đường cơ sở là đường gãy khúc nối liền các điểm được lựa chọn tại ngấn nước thủy triều thấp nhất dọc theo bờ biển và các đảo gần bờ do Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định và công bố.

Vùng nước thuộc nội thủy có chế độ pháp lý như lãnh thổ trên đất liền. Nội thủy của Việt Nam bao gồm các vùng nước phía trong đường cơ sở và vùng nước cảng biển.

- Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở, lãnh hải có chế độ pháp lý như lãnh thổ đất liền; nhưng tàu, thuyền của các quốc gia khác được hưởng quyền qua lại không gây hại và thường đi theo tuyến phân luồng giao thông biển của quốc gia Việt Nam.

Lãnh hải của Việt nam bao gồm lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Nội thủy và lãnh hải là hai vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia (lãnh thổ trên biển của quốc gia).

- Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm bên ngoài liền kề với lãnh hải rộng 24 hải lý tính từ đường cơ sở, Việt Nam có quyền kiểm tra để phòng ngừa vi phạm các luật về hải quan, thuế, y tế, nhập cư và trừng phạt các hành vi vi phạm các quy định trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.

- Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm bên ngoài lãnh hải, cùng với lãnh hải vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Vùng đặc quyn kinh tế không thuộc chủ quyền quốc gia mà thực hiện quyền chủ quyền với mục đích thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tài nguyên sinh vật biển; lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trình khác. Trong vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia khác có quyền tự do hàng hải, hàng không, lắp đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và sử dụng vùng biển vào các mục đích khác phù hợp với luật định.

- Thềm lục địa là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải kéo dài tự nhiên đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc đến cách đường cơ sở 200 hải lý. Trường hợp bờ ngoài của rìa lục địa kéo dài tự nhiên lớn hơn 200 hải lý thì thềm lục địa được kéo dài theo rìa tự nhiên đó nhưng không vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở. Thềm lục địa của Việt Nam rộng 200 - 350 hải lý tính từ đường cơ sở.

Tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế, thềm lục địa là ba vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia.

b) Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa

Vùng biển Việt Nam có trên 4.000 hòn đảo lớn nhỏ (vùng biển Đông Bắc hơn 3000, vùng biển Bắc Trung bộ trên 40, còn lại ở vùng biển Nam Trung bộ và vùng biển Tây Nam và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa). Hệ thống các đảo tiền tiêu như Thổ Chu, Phú Quốc, Côn Đảo, Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Cô Tô, Bạch Long Vĩ...

- Quần đảo Hoàng Sa là huyện đảo trực thuộc Thành phố Đà Nẵng nằm án ngữ trên đường vào Vịnh Bắc Bộ. Quần đảo có trên 30 hòn đảo, đá, cồn san hô, bãi cát nằm rải rác trên vùng biển rộng khoảng 15.000 km2. Các đảo trên Hoàng Sa được chia thành hai nhóm, nhóm An Vĩnh ờ phía Đông Bắc, nhóm Lưỡi Liềm ở phía Tây Nam. Diện tích toàn bộ phần đất nổi của quần đảo khoảng 10 km2, đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm diện tích 1,5 km2. Năm 1956 Trung Quốc chiếm một phần phía Đông, tháng 1/1974 Trung Quốc chiếm toàn bộ quần đảo.

- Quần đảo Trường Sa là huyện đảo thuộc tỉnh Khánh Hòa nằm ở phía Đông Nam Việt Nam, cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 200 hải lý với hơn 100 đảo, đá, cồn và bãi san hô nằm trải rộng trên vùng biển rộng khoảng 160.000 km2. Đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa là đảo Ba Bình rộng khoảng 0,6 km2. Các nước và vùng lãnh thổ đang tranh chấp với Việt Nam trên quần đảo Trường Sa là Trung Quốc, Philipin, Malayxia, Brunây, Đài Loan. Việt Nam đang có mặt quản lý và bảo vệ 21 đảo, bãi đá ngầm (9 đảo nổi, 12 đảo chìm).

Ngày 26/3/1994 Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn Công ước 1982 và trở thành thành viên chính thức của Công ước này. Do vậy, Việt Nam được hưởng quyền và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ do Công ước quy định về chủ quyền đối với hai vùng biển là nội thủy và lãnh hải, quyền chủ quyền đối với ba vùng biển là vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa.

2. Vị trí, tầm quan trọng của biển, đảo Việt Nam

Biển, đảo là một bộ phận cấu thành quốc gia Việt Nam có vị trí quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện cả nước có đến 28 tỉnh, thành phố ven biển, chiếm 42% diện tích đất liền và 45% dân số toàn quốc. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có lợi thế và tiềm năng to lớn về tài nguyên biển.

- Biển, đảo Việt Nam thuộc Biển Đông, một trong những con đường giao thương hàng hải quốc tế nhộn nhịp nhất trên thế giới, nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, đây là điều kiện thuận lợi để chúng ta hội nhập kinh tế biển. Theo báo cáo của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, bờ biển nước ta có 10 điểm có thể xây dựng cảng biển nước sâu và nhiều điểm cảng trung bình với tổng sản lượng hàng hóa vận chuyển đạt 50 triệu tấn/năm. Đến nay, Việt Nam đã ký hiệp định hàng hải thương mại với 26 quốc gia. Việt Nam đã phát triển được 30 cảng biển với 166 bến cảng, 350 cầu cảng…

- Biển, đảo có nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng đối với đời sống và việc phát triển kinh tế của cả nước, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật biển. Trên vùng biển Việt Nam đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau. Ngoài ra, còn phát hiện khoảng 1.300 loài trên các hải đảo.

- Về khoáng sản, biển Việt Nam có khoảng 35 loại khoáng sản có quy mô trữ lượng khai thác khác nhau, trong đó, dầu khí là tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa. Biển Việt Nam còn có tiềm năng băng cháy, loại hình tài nguyên mới của thế giới; vùng ven biển còn chứa đựng tiềm năng to lớn về quặng sa khoáng như titan, thiếc, vàng, sắt, mangan, thạch cao, đất hiếm …

- Bờ biển nước ta mở ra cả 3 hướng Đông, Nam và Tây Nam nên rất thuận lợi cho việc giao lưu thương mại quốc tế và du lịch, nghỉ dưỡng. Về tiềm năng phát triển du lịch biển, với 125 bãi biển lớn nhỏ, nắng ấm quanh năm, không khí trong lành với nhiều cảnh quan đẹp, đảo và vùng ven biển tập trung nhiều di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển, vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên; nhiều di tích văn hóa-lịch sử; các lễ hội dân gian, tín ngưỡng… của cư dân miền biển là điều kiện lý tưởng để xây dựng các khu du lịch, nghỉ mát, nghỉ dưỡng… ngày càng thu hút nhiều du khách trong nước và quốc tế.

- Biển, đảo cũng là địa bàn chiến lược về quốc phòng và an ninh, là tuyến phòng thủ hướng đông của đất nước ta, tạo khoảng không gian cần thiết giúp kiểm soát việc tiếp cận lãnh thổ trên đất liền. Nằm ở trung tâm Biển Đông, Hoàng Sa và Trường Sa là những vị trí tiền tiêu bảo vệ sườn Đông của Tổ quốc. Các nhà chiến lược phương Tây cho rằng quốc gia nào kiểm soát được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế được cả Biển Đông.

3. Nội dung xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia

- Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia là thực hiện tổng thể các giải pháp, biện pháp trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại nhằm thiết lập và bảo đảm quyền làm chủ độc lập, toàn vẹn, đầy đủ về mọi mặt của quốc gia Việt Nam đối với biển, đảo. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là sử dụng sức mạnh tổng hợp của cả nước với tất cả mọi lực lượng và biện pháp chống lại sự xâm phạm, phá hoại dưới mọi hình thức để giữ gìn toàn vẹn chủ quyền nhà nước đối với lãnh thổ quốc gia.

- Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia Việt Nam là tất yếu, là nghĩa vụ, trách nhiệm của mọi công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nội dung gồm:

(1) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Nhận thức rõ tầm quan trọng, vị trí chiến lược của biển, đảo Việt Nam, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn và nhất quán về biển đảo. Đặc biệt là ngày 09/02/2004 Trung ương đã có Nghị quyết số 09-NQ/TW (khóa X) về “Chiến lược biển Việt Nam” đến năm 2020.

Cùng với đó, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật nhằm thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng về xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo như: Tuyên bố của Chính phủ về các vùng biển và đường cơ sở năm 1997 và 1982; Luật Dầu khí 1993; Bộ Luật hàng hải 1991; Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng 1997; Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam 1998; Luật Biên giới quốc gia 2003; Luật Biển Việt Nam 2012; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015. Nhà nước ta cũng là thành viên của hàng loạt điều ước quốc tế liên quan đến biển và đại dương trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982).

(2) Hoàn thiện thiết chế quản lý, bảo vệ lợi ích quốc gia trên biển, đảo.

Xây dựng và hoàn thiện thiết chế quản lý biển, đảo thông qua việc hình thành và nâng cao vai trò trách nhiệm các lực lượng thực thi pháp luật trên biển.

Từng bước hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước về biển, đảo cùng với sự phân công trách nhiệm cụ thể về các lĩnh vực quản lý nhà nước đối với biển, đảo giữa địa phương với các bộ, ngành trung ương…

Thực thi quyền lực tối cao của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên biển, đảo; chống lại mọi hành động xâm phạm về lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước trên biển, đảo.

Đấu tranh kiên quyết, phù hợp trên thực địa, trên mặt trận ngoại giao, dư luận trong nước và quốc tế đối với mọi vi phạm của các nước đối với chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Triển khai các biện pháp đấu tranh, đồng thời cũng triển khai các biện pháp chủ động ngăn ngừa các vi phạm chủ quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên biển, đảo.

Các lực lượng thực thi pháp luật trên biển như hải quân, cảnh sát biển, biên phòng, kiểm ngư tích cực, chủ động tiến hành hoạt động tuần tra, kiểm soát duy trì trật tự, an toàn, an ninh; phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật trên biển đảo Việt Nam.

(3) Tăng cường và củng cố quốc quốc phòng và an ninh bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo

Sức mạnh bảo vệ chủ quyền biển đảo là sức mạnh tổng hợp của cả nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt mà trực tiếp là hải quân, biên phòng, cảnh sát biển, dân quân tự vệ biển. Vì vậy phải xây dựng lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vê chủ quyền biển đảo vững mạnh, có số lượng hợp lý, chất lượng tổng hợp cao, có vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại; Chú trọng nâng cao trình độ hợp đồng tác chiến giữa các lực lượng bảo đảm khả năng xử lý linh hoạt và hiệu quả các tình huống có thể xẩy ra trên biển, đảo.

(4) Phát triển kinh tế biển, đảo, gắn phát triển kinh tế với quốc phòng và an ninh

Phát triển hệ thống 15 khu kinh tế biển, tạo việc làm cho hàng vạn lao động và là động lực để phát triển kinh tế - xã hội trên biển, đảo

Thúc đẩy nhanh quá trình dân sự hóa trên biển, đảo, nhất là một số vùng biển, đảo có vị trí chiến lược về kinh tế với xây dựng thế trận quốc phòng và an ninh đủ khả năng bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia.

Phát triển cơ sở hạ tầng biển, đảo tạo cơ sở cho phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng và an ninh; chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân trên các đảo ngày càng ổn định, tin tưởng vào chủ trương chính sách Đảng, Nhà nước.

Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng ven biển, trên biển, các đảo phải tuân thủ các yêu cầu đặt ra trong kế hoạch tổng thể của khu vực phòng thủ địa phương, phải mang tính hệ thống, liên hoàn, vững chắc.

Trang bị kỹ thuật phục vụ cho mục đích kinh tế - xã hội phải phù hợp với hệ thống trang bị kỹ thuật quốc phòng và an ninh trong hệ thống các cụm lực lượng trên biển, ưu tiên xây dựng các đảo tiền tiêu xa bờ. Các cơ sở hậu cần, kỹ thuật kinh tế - xã hội ven bờ, trên biển và trên các đảo phải sẵn sàng huy động cho nhiệm vụ quốc phòng và an ninh.

(5) Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho toàn dân về vai trò của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Tuyên truyền sâu rộng về vai trò của biển đảo cho cán bộ, nhân dân trong cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài. Công tác tuyên truyền phải được chú trọng và thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với thực tiễn, trình độ, khả năng nhận thức của đối tượng tuyên truyền

Cung cấp thông tin khách quan, có định hướng về những vấn đề đang đang diễn ra, nhất là những vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông để mọi tầng lớp nhân dân hiểu đúng, hiểu đủ về bản chất vấn đề, giải quyết mọi thắc mắc băn khoăn của người dân để tạo niềm tin, sự đồng thuận chung trong xã hội đối với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về chủ quyền biển, đảo.

Khơi dậy lòng tự hào dân tộc, ý chí kiên cường, bất khuất, truyền thống chống ngoại xâm của ông cha, làm cho mỗi công dân thấy rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với chủ quyền biển, đảo, đoàn kết, chung sức xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

(6) Củng cố, tăng cường quan hệ quốc tế, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi hỗ trợ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Kết hợp chặt chẽ giữa hợp tác và đấu tranh, giữa giải quyết hòa bình các tranh chấp với tìm kiếm các biện pháp hợp tác xây dựng lòng tin nhằm tạo cơ hội cho việc giải quyết các tranh chấp; giữa tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau với tuân thủ luật pháp quốc tế …

Tích cực tham gia vào các hoạt động quốc tế, xây dựng luật quốc tế liên quan đến biển và đại dương ở khu vực và toàn cầu

Thúc đẩy quan hệ song phương và đa phương; chủ động tạo dựng các khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và đan xen lợi ích với các quốc gia trong khu vực và quốc tế góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo.

(7) Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Triển khai thực hiện có hiệu quả các loại hình đào tạo hình thành nguồn nhân lực biển có chất lượng bảo đảm cho trước mắt và lâu dài. Tăng cường nhiều lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, kiến thức pháp luật về biển đảo ở các cấp. Chú trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghề phục vụ cho kinh tế biển. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với nhiều đối tác khác nhau nhằm đào tạo và học hỏi kinh nghiệm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực biển.

Biển đảo Việt Nam là một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước hiện nay và mai sau. Phát huy lợi thế, khai thác tiềm năng thế mạnh kết hợp với bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nghĩa vụ, trách nhiệm của mọi công dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước.

II. XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA

1. Biên giới quốc gia

Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng, theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Biên giới quốc gia Việt Nam bao gồm biên giới quốc gia trên đất liền, biên giới quốc gia trên biển, biên giới quốc gia trên không, biên giới quốc gia trong lòng đất.

a) Biên giới quốc gia trên đất liền

Là phân định lãnh thổ trên bề mặt đất liền của vùng đất quốc gia; được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia có lãnh thổ tiếp giáp với nhau và được thể hiện bằng các điều ước hoạch định biên giới giữa các quốc gia liên quan. Khi xác định thường dựa vào các các yếu tố:

- Địa hình tự nhiên: núi, sông, suối, hồ nước, thung lũng...

- Thiên văn: theo kinh tuyến, vĩ tuyến

- Hình học: đường nối liền các điểm quy ước

Việt Nam có đường biên giới quốc gia trên đất liền dài 4.550 km, tiếp giáp với Trung Quốc dài 1350 km, với Lào dài 2.067 km, với Cămpuchia dài 1.137 km.

b) Biên giới quốc gia trên biển

- Là ranh giới phía ngoài của lãnh hải để phân định lãnh thổ trên biển giữa các quốc gia có bờ biển liền kề hay đối diện nhau.

- Biên giới quốc gia trên biển của quốc gia quần đảo là đường biên giới quốc gia phân định lãnh thổ quốc gia với biển cả.

- Đối với các đảo của một quốc gia nằm ngoài phạm vi lãnh hải của quốc gia, biên giới quốc gia trên biển là đường ranh giới phía ngoài của lãnh hải bao quanh đảo.

- Biên giới quốc gia trên biển của Việt nam được hoạch định và đánh dấu bằng các tọa độ trên hải đồ là ranh giới phía ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo của Việt Nam được xác định theo Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa Cộng hòa xã hội ch Việt Nam và các quốc gia hữu quan.

c) Biên giới quốc gia trên không

Là biên giới phân định vùng trời giữa các quốc gia liền kề hoặc các vùng trời quốc tế, được xác định bởi mặt phẳng thẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền và biên giới quốc gia trên biển lên trên vùng trời. Đến nay chưa có quốc gia nào quy định độ cao cụ thể của biên giới quốc gia trên không.

d) Biên giới quốc gia trong lòng đất

Là phân định lãnh thổ quốc gia trong lòng đất phía dưới vùng đất quốc gia, nội thủy và lãnh hải, được xác định bởi mặt phẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền và biên giới quốc gia trên biển xuống lòng đất. Độ sâu cụ thể của biên giới trong lòng đất được xác định bằng độ sâu mà kỹ thuật khoan có thể thực hiện được. Đến nay, chưa có quốc gia nào quy định độ sâu cụ thể của biên giới trong lòng đất.

e) Khu vực biên giới

Là vùng lãnh thổ tiếp giáp biên giới quốc gia có quy chế, quy định đặc biệt do chính phủ ban hành nhằm bảo vệ an toàn biên giới.

- Khu vực biên giới Việt Nam trên đất liền gồm xã, phường, thị trấn có một phần địa giới hành chính trùng hợp với biên giới quốc gia trên đất liền.

- Khu vực biên giới quốc gia Việt Nam trên biển được tính từ biên giới quốc gia trên biển vào hết địa giới hành chính xã, phường, thị trấn giáp biển, đảo và quần đảo.

- Khu vực biên giới quốc gia Việt Nam trên không gồm phần không gian dọc theo biên giới quốc gia có chiều rộng 10 km tính từ biên giới quốc gia trở vào.

2. Nội dung xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia

Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia là thực hiện tổng thể các giải pháp, biện pháp để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ tài nguyên, môi sinh, môi trường, lợi ích quốc gia; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên khu vực biên giới.

Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia là một nội dung của xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới là sự nghiệp của toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý.

Nội dung gồm:

- Ưu tiên đầu tư xây dựng khu vực biên giới vững mạnh toàn diện về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh; có chính sách ưu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân khu vực biên giới định cư ổn định, phát triển và sinh sống lâu dài ở khu vực biên giới; điều chỉnh dân cư theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng và an ninh khu vực biên giới.

- Tăng cường, mở rộng quan hệ đối ngoại các cấp trên khu vực biên giới; phát triển kinh tế đối ngoại, tăng cường hợp tác nhiều mặt nhằm xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng.

- Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Sử dụng tổng hợp các lực lượng và biện pháp của nhà nước chống lại sự xâm phạm, phá hoại dưới mọi hình thức để giữ gìn toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia.

- Bảo vệ tài nguyên, môi sinh, môi trường. Sử dụng tổng hợp các biện pháp đấu tranh ngăn chặn mọi hành động xâm phạm tài nguyên, đặc biệt là xâm phạm tài nguyên trong lòng đất, trên biển, trên không, thềm lục địa của Việt Nam. Ngăn chặn, đấu tranh với mọi hành động phá hoại, hủy hoại, gây ô nhiễm môi sinh, môi trường khu vực biên giới, bảo đảm cho người Việt Nam, nhân dân khu vực biên giới có môi trường sinh sống bền vững, ổn định và phát triển lâu dài.

- Bảo vệ lợi ích quốc gia trên khu vực biên giới. Thực thi quyền lực tối cao của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên khu vực biên giới; chống lại mọi hành động xâm phạm về lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước trên khu vực biên giới. Bảo đảm mọi lợi ích của người Việt Nam phải được thực hiện ở khu vực biên giới theo luật pháp Việt Nam, phù hợp với luật pháp quốc tế và các hiệp định mà Việt nam đã ký kết với các nước hữu quan.

- Giữ gìn an ninh chính trị, trật tư, an toàn xã hội ở khu vực biên giới. Đập tan mọi âm mưu và hành động gây mất ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội khu vực biên giới. Đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành động chia rẽ đoàn kết dân tộc, phá hoại sự ổn định, phát triển khu vực biên giới.

- Phối hợp với các nước, đấu tranh ngăn chặn mọi hành động phá hoại tình đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam vời nhân dân các nước láng giềng. Trấn áp mọi hành động khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia.

III. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO, BIÊN GIỚI QUỐC GIA

Biển, đảo, biên giới Việt Nam là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia Việt Nam, vì vậy xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới là trực tiếp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Thực hiện xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới phải quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia, nội dung gồm:

1. Quan điểm thứ nhất

Xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là một nội dung quan trọng của sự nghiệp xây dưng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tổ quốc Việt Nam được hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của toàn dân tộc; đặc biệt là quá trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Lãnh thổ và biên giới quốc gia là một bộ phận hợp thành quan trọng, không thể tách rời của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; là yếu tố cơ bản bảo đảm cho sự ổn định, bền chắc của đất nước Việt Nam; là sự khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam, bao gồm cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong phạm vi lãnh thổ.

Xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là một nội dung đặc biệt quan trọng của xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

2. Quan điểm thứ hai

Chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm của dân tộc Việt Nam.

- Dân tộc Việt Nam đã trải qua mấy nghìn năm, hình thành và phát triển đến ngày nay; dân tộc Việt Nam phải được tiếp tục tồn tại và phát triển bình đẳng với các quốc gia, dân tộc khác trong cộng đồng quốc tế.

- Chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia Việt Nam là kết quả đấu tranh dựng nước và giữ nước của toàn dân tộc; trải qua nhiều cuộc chiến chống lại ách đô hộ của các thế lực phong kiến, thực dân, đế quốc để giành thắng lợi.

- Chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia Việt Nam là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của dân tộc Việt Nam

3. Quan điểm thứ ba

Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định; giải quyết các vấn đề tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau.

- Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định là vấn đề đặc biệt quan trọng, là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với lợi ích và luật pháp Việt Nam, phù hợp với công ước và luật pháp quốc tế, cũng như lợi ích của các quốc gia có liên quan.

- Trong giải quyết các vấn đế tranh chấp lãnh thổ, biên giới, Đảng và nhà nước ta luôn nhất quán thực hiện quan điểm giải quyết bằng thương lượng hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau.

- Về vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, quan điểm nhất quán của Việt Nam là: khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với vùng biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam sẵn sàng đàm phán hòa bình để giải quyết.

4. Quan điểm thứ tư

Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là sự nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, lực lượng vũ trang là nòng cốt.

- Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là một nội dung quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do đó mọi công dân Việt Nam đều có nghĩa vụ, trách nhiệm, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước thống nhất quản lý, điều hành.

- Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Bộ đội Biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, phối hợp với lực lượng công an nhân dân, các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới theo quy định của pháp luật..

IV. TRÁCH NHIỆM CỦA CÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO, BIÊN GIỚI QUỐC GIA

- Mọi công dân Việt Nam đều có nghĩa vụ, trách nhiệm xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia.

- Chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trước hết thực hiện nghiêm và đầy đủ Luật Quốc phòng, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Biên giới quốc gia.

- Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quân sự, quốc phòng, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

- Trách nhiệm của sinh viên:

+ Không ngừng nâng cao nhận thức về xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia; truyền thống dựng nước và giữ nước của ông cha ta; truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng; từ đó củng cố lòng yêu nước, xây dựng lòng tin, nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

+ Thực hiện tốt chương trình môn học giáo dục quốc phòng an ninh, hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc phòng an ninh trong thời gian học tập tại trường.

+ Tích cực học tập và rèn luyện toàn diện để trở thành người công dân tốt. Nghiêm chỉnh chấp hành mọi đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của nhà trường, địa phương.

+ Sau khi ra trường sẵn sàng tham gia lực lượng vũ trang; tình nguyện tham gia xây dựng và bảo vệ đất nước ở các vùng biển, đảo, biên giới.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Trình bày hiểu biết về chủ quyền biển đảo quốc gia Việt Nam?

2. Nêu các nội dung xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Liên hệ thực tế kết quả các nội dung chúng ta đã làm được và còn tồn tại?

3. Nêu các giải pháp và xác định trách nhiệm bản thân phải làm gỉ để góp phần xây dựng, bảo vệ chủ quyền biển, đảo?

4. Trình bày hiểu biết của mình về biên giới quốc gia Việt Nam? Liên hệ trách nhiệm bản thân?

5. Nêu và phân tích các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia?

 

 

 

Bài 9

XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ,

LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN VÀ ĐỘNG VIÊN

CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG

--------------------

Để bảo vệ Tổ quốc trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào cũng đều phải xây dựng quân đội hùng mạnh, trong đó phải tập trung xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có số lượng đủ, chất lượng cao, được huấn luyện và quản lý tốt, đảm bảo khi cần thiết cỏ thể động viên nhanh chóng theo kế hoạch.

Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên là nhiệm vụ quan trọng, lâu dài, khó khăn, phức tạp, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, đòi hỏi phải có sự đồng thuận, vào cuộc của các cấp, ban, ngành, của cả hệ thống chính trị; trong xây dựng phải kết hợp chặt chẽ với xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh, xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội và tùy theo đặc điểm, tình hình của đất nước, yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của mỗi giai đoạn trên cơ sở xác định số lượng, tồ chức, phương thức, yêu cầu xây dựng cho phù hợp.

 

I. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ

1. Khái niệm, vị trí vai trò và nhiệm vụ của lực lượng dân quân tự vệ

a) Khái niệm dân quân tự vệ

- Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác, là một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành của Chính phủ và của ủy ban nhân dân các cấp.

- Sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của cơ quan quân sự địa phương.

- Dân quân được tổ chức ở xã, phường, thị trấn; tự vệ được tổ chức ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội.

b) Vị trí vai trò của dân quân tự vệ

- Là một lực lượng chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân trong thời bình tại địa phương và phong trào toàn dân đánh giặc trong thời chiến.

+ Trong thời bình, dân quân tự vệ là lực lượng đông đảo tham gia xây dựng kinh tế, phát triển địa phương và cả nước, đồng thời xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Phối hợp với các lực lượng khác đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng chống thiên tai, bảo đảm an toàn cho nhân dân.

+ Trong thời chiến, dân quân tự vệ nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, chiến đấu, tiêu hao, tiêu diệt lực lượng, phương tiện của địch, căng kéo, kỳm chân, buộc địch phải sa lầy tại địa phương; tạo thế, tạo lực cho bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương chiến đấu; tham gia phục vụ chiến đấu trong thế trận chiến tranh nhân dân.

- Là một trong những công cụ chủ yếu để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng, chính quyền, tính mạng, tài sản của nhà nước, nhân dân.

Đánh giá vai trò dân quân tự vệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Dân quân tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ thù nào dù hung bạo đến đâu hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan rã”.

c) Nhiệm vụ của lực lượng dân quân tự vệ

Điều 5. Nhiệm vụ của Dân quân tự vệ

1. Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ địa phương, cơ sở, cơ quan, tổ chức.

2. Phối hợp vi các đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và lực lượng khác trên địa bàn bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, hải đảo, vùng biển, vùng trời Việt Nam; tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật theo quy định của pháp luật.

3. Thực hiện nhiệm vụ huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, pháp luật, hội thi, hội thao, diễn tập.

4. Tham gia thực hiện các biện pháp về chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng theo quy định của pháp luật, quyết định của cấp có thẩm quyền.

5. Phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh, cháy, nổ; tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ; bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường và nhiệm vụ phòng thủ dân sự khác theo quy định của pháp luật.

6. Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh; tham gia xây dng địa phương, cơ sở vững mạnh toàn diện, thực hiện chính sách xã hội.

7. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

Những nhiệm vụ trên được quy định trong Luật Dân quân tự vệ 2019. Đó là những nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên trong mọi giai đoạn cách mạng đối với mọi tổ chức dân quân tự vệ. Đồng thời là phương hướng, mục tiêu cơ bản chỉ đạo xây dựng và hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ.

2. Nội dung xây dựng dân quân tự vệ

a) Phương châm xây dựng

Xây dựng dân quân tự vệ theo hướng “vững mạnh, rộng khắp, coi trong chất lượng là chính”

- Vững mạnh

+ Chất lượng phải toàn diện cả về chính trị tư tưởng, tổ chức, trình độ chính trị, quân sự và chuyên môn nghiệp vụ.

+ Biên chế, trang bị hợp lý, thống nhất

+ Mỗi tổ chức dân quân tự vệ phải luôn vững vàng, có kỷ luật nghiêm, cơ động nhanh, sẵn sàng chiến đấu tốt.

- Rộng khắp

+ Ở đâu có tổ chức Đảng, chính quyền và có dân đều phải tổ chức dân quân tự vệ.

+ Trường hợp các doanh nghiệp không đủ điều kiện tổ chức dân quân tự vệ, nếu có yêu cầu thì công nhân được tham gia dân quân tự vệ ở địa phương nơi cư trú.

- Coi trọng chất lượng là chính

+ Chất lượng là yếu tố cơ bản, là điều kiện cần thiết để xây dựng dân quân tự vệ vững mạnh; là cơ sở để tạo nên sức mạnh chiến đấu của đơn vị.

+ Coi trọng chất lượng là phải có lý lịch rõ ràng, có phẩm chất đạo đức tốt, sức khỏe phù hợp, chấp hành đúng đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định ở địa phương.

b) Thành phần, tổ chức, biên chế, trang bị của lực lượng dân quân tự vệ

- Thành phần: Dân quân tự vệ gồm dân quân tự vệ nòng cốt và dân quân tự vệ rộng rãi. Tại các địa bàn trọng điểm về quốc phòng và an ninh còn có dân quân tự vệ thường trực.

+ Lực lượng dân quân tự vệ nòng cốt: Là lực lượng gồm những công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ, được tuyển chọn vào phục vụ có thời hạn trong các đơn vị dân quân tự vệ, bao gồm:

Dân quân tự vệ cơ động là lực lượng thuộc dân quân tự vệ nòng cốt được tổ chức thành các đơn vị sẵn sàng cơ động làm nhiệm vụ trên các địa bàn khi có lệnh của cấp có thẩm quyền.

Dân quân tự vệ tại chỗ là lực lượng thuộc dân quân tự vệ nòng cốt được tổ chức và hoạt động ở thôn, ấp, bản, buôn, phum, sóc, khóm, tổ dân phố và cơ quan, tổ chức làm nhiệm vụ tại chỗ, sẵn sàng tăng cường cho dân quân tự vệ cơ động.

Dân quân tự vệ biển là lực lượng thuộc dân quân tự vệ nòng cốt được tổ chức ở cấp xã ven biển, xã đảo và cơ quan, tổ chức có phương tiện hoạt động trên biển để làm nhiệm vụ trên các vùng biển Việt Nam.

Dân quân tự vệ phòng không, pháo binh, công binh, trinh sát, thông tin, phòng hóa, y tế

+ Lực lượng dân quân tự vệ rộng rãi: Là lực lượng gồm những công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ đã được đăng ký, quản lý để sẵn sàng mở rộng lực lượng và huy động khi có lệnh của cấp có thẩm quyền.

Độ tuổi thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ trong thời bình là: công dân nam từ đủ 18 đến hết 45 tuổi, công dân nữ từ đủ 18 đến hết 40 tuổi; nếu tình nguyện tham gia dân quân tự vệ thì có thể đến 50 tuổi đối với nam, đến 45 tuổi đối với nữ.

- Tổ chức dân quân tự vệ

+ Tổ chức đơn vị dân quân tự vệ gồm: tổ; tiểu đội, khẩu đội; trung đội; đại đội, hải đội; tiểu đoàn, hải đoàn

+ Tổ chức chỉ huy quân sự cơ sở gồm: Thôn đội; Ban chỉ huy quân sự cấp xã; Ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức cơ sở (nơi có tổ chức lực lượng dân quân tự vệ, có lực lượng dự bị động viên và nguồn sẵn sàng nhập ngũ theo quy định của pháp luật); Ban chỉ huy quân sự bộ, ngành trung ương.

+ Quy mô tổ chức:

Cấp thôn: tổ, tiểu đội, trung đội dân quân tại chỗ

Cấp xã: tổ chức trung đội dân quân cơ động; theo yêu cầu nhiệm vụ có thể tổ chức tổ, tiểu đội trinh sát, thông tin, công binh, phòng hóa, y tế. Cấp xã trọng điểm về quốc phòng và an ninh tổ chức tiểu đội dân quân thường trực trong trung đội dân quân cơ động của xã. Cấp xã ven biển, xã đảo tổ chức tiểu đội, trung đội dân quân biển.

Cấp huyện: có thể tổ chức đại đội dân quân tự vệ cơ động, trung đội dân quân tự vệ phòng không, pháo binh, trung đội dân quân tự vệ luân phiên thường trực.

Cấp tỉnh: có thể tổ chức đại đội dân quân tự vệ phòng không, pháo binh.

Cơ quan, tổ chức: tổ chức tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn tự vệ. Cơ quan, tổ chức có phương tiện hoạt động trên biển tổ chức tiểu đội, trung đội, trung đội, hải đội, hải đoàn tự vệ biển.

- Biên chế dân quân tự vệ: Thống nhất trong toàn quốc do Bộ Quốc phòng quy định.

+ Chức vụ chỉ huy cơ bản của dân quân tự vệ

Tiểu đội trưởng, khẩu đội trưởng do Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp huyện quyết định bổ nhiệm theo đề nghị của Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp xã.

Trung đội trưởng do Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp huyện quyết định bổ nhiệm theo đề nghị của Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp xã.

Đại đội trưởng, chính trị viên đại đội, hải đội trưởng, chính trị viên hải đội do Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự cấp tỉnh quyết định bổ nhiệm theo đề nghị của Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp huyện.

Tiểu đoàn trưởng, chính trị viên tiểu đoàn, hải đoàn trưởng, chính trị viên hải đoàn do tư lệnh Quân khu, Tư lệnh Quân chủng Hải quân quyết định bổ nhiệm theo đề nghị của Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự cấp tỉnh, Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân và Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.

+ Chỉ huy quân sự ở cơ sở gồm:

Thôn đội trưởng do Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp huyện quyết định bổ nhiệm theo đề nghị của Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp xã.

Ban chỉ huy quân sự cấp xã gồm: Chỉ huy trưởng là thành viên Ủy ban nhân dân cấp xã; Chỉ huy phó, Chính trị viên, Chính trị viên phó là cán bộ kiêm nhiệm; Chính trị viên Ban chỉ huy quân sự cấp xã thường do đồng chí Bí thư Đảng ủy cấp xã kiêm nhiệm. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định bổ nhiệm cán bộ Ban chỉ huy cấp xã theo đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã.

Ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ sở gồm: Chỉ huy trưởng là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức kiêm nhiệm; Chỉ huy phó, Chính trị viên, Chính trị viên phó là cán bộ kiêm nhiệm. Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự cấp tỉnh quyết định bổ nhiệm cán bộ Ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ sở theo đề nghị của Ban chỉ huy quân sự cấp huyện.

Chỉ huy trưởng, chỉ huy phó, chính trị viên, chính trị viên phó ban chỉ huy quân sự bộ, ngành trung ương do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định bổ nhiệm theo đề nghị của Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt nam sau khi thống nhất với người đứng đầu bộ, ngành trung ương.

- Về vũ khí, trang bị của dân quân tự vệ

Dân quân tự vệ được trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ và phương tiện kỹ thuật.

Vũ khí, trang bị cho dân quân tự vệ từ các nguồn do Bộ Quốc phòng cấp, các địa phương tự chế tạo hoặc thu được của địch.

Dù từ nguồn nào, vũ khí, trang bị cho dân quân tự vệ đều là tài sản của Nhà nước giao cho dân quân tự vệ quản lý. Do vậy phải được đăng ký, quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật.

c) Giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự đối với dân quân tự vệ

Nhằm làm cho dân quân tự vệ nâng cao nhận thức về chính trị, lập trường tư tưởng, đạo đức cách mạng trong sáng, luôn trung thành với Đảng, Tổ quốc; có trình độ quân sự và kỷ luật nghiêm.

Nội dung giáo dục, thực hiện giáo dục, huấn luyện hàng năm theo chương trình quy định của Bộ Quốc phòng. Huấn luyện toàn diện cho các đối tượng sát với nhiệm vụ của địa phương, cơ sở.

3. Một số biện pháp xây dựng dân quân tự vệ trong giai đoạn hiện nay

- Thường xuyên giáo dục, quán triệt sâu rộng các quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác dân quân tự vệ.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp trên địa bàn để xây dựng lực lượng dân quân tự vệ

- Xây dựng dân quân tự vệ gắn với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện.

- Thực hiện đúng các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với lực lượng dân quân tự vệ.

II. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN

1.Khái niệm, vị trí vai trò

a) Khái niệm

Lực lượng dự bị động viên gồm quân nhân dự bị và phương tiện kỹ thuật đã xếp trong kế hoạch bổ sung cho lực lượng thường trực của quân đội, nhằm duy trì tiềm lực quân sự, là yếu tố góp phần quyết định sự thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

- Quân nhân dự bị gồm sỹ quan dự bị, quân nhân chuyên nghiệp dự bị, hạ sỹ quan và binh sỹ dự bị.

- Phương tiện kỹ thuật gồm các phương tiện nằm trong danh mục quy định của Chính phủ như các phương tiện: vận tải, xếp dỡ, thông tin liên lạc, y tế...

b) Vị trí vai trò công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên

- Xây dựng lực lượng dự bị động viên giữ vị trí rất quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng đến số lượng, chất lượng, sức mạnh chiến đấu của quân đội.

- Là một trong những nhiệm vụ cơ bản góp phần xây dựng tiềm lực, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân.

- Bảo đảm nguồn nhân lực mở rộng quân đội khi đất nước sang trạng thái chiến tranh.

- Phối hợp chặt chẽ với dân quân tự vệ, công an... tăng sức mạnh chiến đấu trên các địa bàn trong khu vực phòng thủ, bảo đảm sự vững chắc của thế trận quốc phòng ở địa phương, cơ sở.

- Thể hiện quán triệt quan điểm về sự kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh.

- Xây dựng lực lượng dự bị động viên tốt sẽ làm nòng cốt cho xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội và trong thực hiện chiến lược quốc phòng và an ninh, chiến lược bảo vệ Tổ quốc.

2. Những quan điểm, nguyên tắc xây dựng lực lượng dự bị động viên

a) Xây dựng lực lương dự bị động viên bảo đảm số lượng đủ, chất lượng cao, xây dựng toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm

- Xây dựng lực lượng dự bị động viên là một vấn đề hệ trọng liên quan đến vận mệnh quốc gia, phải được xây dựng hùng hậu ngay từ thời bình. Bảo đảm về số lượng và chất lượng.

- Số lượng đủ thể hiện ở quy mô, số lượng đơn vị, tổng quân số, tổng số phương tiện kỹ thuật được tổ chức xây dựng và chuẩn bị, sẵn sàng bổ sung cho quân đội theo kế hoạch.

- Chất lượng cao được thể hiện trên tất cả các mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy, trình độ kỹ thuật, chiến thuật, chuyên môn nghiệp vụ, trang bị và khả năng bảo đảm hậu cần kỹ thuật; trong đó chính trị, tư tưởng làm cơ sở.

- Trong quá trình xây dựng lực lượng dự bị động viên phải luôn tập trung thực hiện tốt các khâu quản lý, giáo dục, tạo nguồn.

b) Xây dựng lực lượng dự bị động viên phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị

- Xây dựng lực lượng dự bị động viên phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị là một quan điểm cơ bản, mang tính nguyên tắc.

- Xây dựng lực lượng dự bị động viên là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, là cuộc vận động chính trị sâu sắc trong quần chúng về bảo vệ Tổ quốc.

- Sức mạnh tổng hợp là sự lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành của chính phủ, chính quyền các cấp theo pháp luật; sự hiệp đồng thực hiện giữa các đơn vị quân đội, cơ quan quân sự với các cơ quan chính quyền, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị là yếu tố cơ bản nhất luôn bảo đảm cho lực lượng dự bị động viên có số lượng đủ, chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

c) Xây dựng lực lượng dự bị động viên đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng các cấp ở địa phương, bộ, ngành

- Xây dựng lực lượng dự bị động viên có vị trí, tầm quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng.

- Là nguyên tắc cơ bản bảo đảm cho lực lượng dự bị động viên luôn có mục tiêu, phương hướng, nội dung xây dựng đúng đắn, bảo đảm cho sức mạnh chiến đấu của quân đội.

- Sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng lực lượng dự bị động viên được thể hiện trên tất cả các khâu, các bước trong quá trình thực hiện.

3. Nội dung xây dựng lực lượng dự bị động viên

a) Tạo nguồn, đăng ký, quản lý lực lượng dự bị động viên

- Tạo nguồn

+ Đối sỹ quan: lựa chọn từ sỹ quan phục viên, xuất ngũ; cán bộ chuyên môn kỹ thuật ngoài quân đội; đào tạo từ hạ sỹ quan, nam sinh viên tốt nghiệp đại học.

+ Đối với hạ sỹ quan, binh sỹ: sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, có đủ điều kiện về phẩm chất, năng lực, sức khỏe đưa vào tạo nguồn.

- Đăng ký quản lý nguồn

Việc đăng ký, quản lý lực lượng dự bị động viên phải có kế hoạch thường xuyên, chặt chẽ và chính xác, đăng ký cả con người và phương tiện kỹ thuật.

+ Đối với quân nhân dự bị: được tiến hành đăng ký, quản lý tại nơi cư trú, do Ban chỉ huy quân sự xã (phường), Ban chỉ huy quân sự huyện (quận và tương đương) thực hiện.

+ Đối với phương tiện kỹ thuật, phải đăng ký, quản lý chính xác thường xuyên cả số lượng, chất lượng, tình trạng kỹ thuật của từng phương tiện.

- Tổ chức biên chế đơn vị dự bị động viên:

+ Tổ chức sắp xếp quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật thành từng đơn vị dự bị động viên theo kế hoạch để quản lý, huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.

+ Các loại hình biên chế hiện nay: đơn vị biên chế đủ; đơn vị biên chế thiếu; đơn vị biên chế khung thường trực, đơn vị không có khung thường trực; đơn vị chuyên môn thời chiến.

+ Nguyên tắc sắp xếp: Sắp xếp theo chuyên nghiệp quân sự, chuyên môn kỹ thuật phù hợp với chức danh biên chế, nếu thiếu thì sắp xếp người có trình độ tương ứng; quân nhân dự bị hạng một trước, nếu thiếu xếp tiếp hạng hai.

b) Giáo dục chính trị, huấn luyện, diễn tập, kiểm tra đơn vị dự bị động viên

- Giáo dục chính trị: Giáo dục chính trị nhằm làm cho cán bộ, chiến sỹ nâng cao nhận thức về chính trị, có lập trường tư tưởng vững vàng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, nhân dân. Nội dung giáo dục: Đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc. Giáo dục chính trị cho tất cả các đối tượng.

- Công tác huấn luyện: Huấn luyện theo phương châm “chất lượng, thiết thực, hiệu quả, tập trung có trọng tâm, trọng điểm”. Nội dung huấn luyện, diễn tập theo chương trình quy định của Bộ Quốc phòng và kế hoạch của đơn vị, địa phương.

c) Bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, tài chính cho xây dựng lực lương dự bị động viên

Vật chất kỹ thuật, kinh phí là yếu tố rất quan trọng để bảo đảm vũ khí trang bị, hậu cần kỹ thuật và tài chính. Yêu cầu phải bảo đảm đúng mức, kịp thời để triển khai thực hiện.

Việc bảo đảm vật chất, kinh phí, hàng năm Chính phủ giao chỉ tiêu nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương thực hiện.

4. Một số biện pháp xây dựng lực lượng dự bị động viên

- Thường xuyên giáo dục sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân về vị trí và những quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với lực lượng dự bị động viên.

- Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự và các cơ quan chức năng làm tham mưu và tổ chức thực hiện.

- Thường xuyên củng cố, kiện toàn, bồi dưỡng cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên.

- Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với lực lượng dự bị động viên.

III. ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG

1. Khái niệm, nguyên tắc, yêu cầu động viên công nghiệp quốc phòng

a) Khái niệm

Động viên công nghiệp quốc phòng là huy động một phần hoặc toàn bộ năng lực sản xuất, sữa chữa trang bị cho quân đội của doanh nghiệp công nghiệp ngoài lực lượng quốc phòng, nhằm huy động mọi nguồn lực của đất nước hoặc một số địa phương... phục vụ cho quốc phòng, giành thế chủ động, phát huy tiềm lực mọi mặt của quốc gia, duy trì, ổn định sản xuất và đời sống của nhân dân, giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

b) Nguyên tắc động viên

- Động viên công nghiệp quốc phòng được tiến hành trên cơ sở năng lực sản xuất, sửa chữa đã có của các doanh nghiệp công nghiệp, Nhà nước chỉ đầu tư thêm trang thiết bị chuyên dùng để hoàn chỉnh dây chuyền phục vụ cho quốc phòng.

- Việc lựa chọn, giao nhiệm vụ động viên cho các doanh nghiệp phải bảo đảm tính đồng bộ theo nhu cầu của quân đội và phù hợp với năng lực của doanh nghiệp.

- Nhà nước bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, người lao động trong chuẩn bị và thực hành động viên.

c) Yêu cầu

- Chuẩn bị và thực hành động viên phải bảo đảm bí mật, an toàn, tiết kiệm, hiệu quả, đúng kế hoạch, nhanh chóng sẵn sàng đối phó với các tình huống chiến tranh.

Đây là yêu cầu cơ bản, có tính quyết định hoàn thành nhiệm vụ động viên. Kế hoạch phải được chuẩn bị chu đáo, tuyệt mật; triển khai thực hiện phải tuân thủ chặt chẽ theo quy định của pháp luật, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả.

- Chuẩn bị và thực hành động viên công nghiệp quốc phòng phải bảo đảm cho yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của các địa phương trong thời chiến.

2. Một số nội dung động viên công nghiệp quốc phòng

a) Chuẩn bị động viên

- Khảo sát, lựa chọn doanh nghiệp công nghiệp có khả năng sản xuất, sữa chữa

- Xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp quốc phòng.

- Giao chỉ tiêu động viên; hoàn chỉnh dây chuyền sản xuất, sữa chữa.

- Quản lý, duy trì dây chuyền sản xuất, sữa chữa.

- Bồi dưỡng chuyên môn, tay nghề cho người lao động, diễn tập động viên

- Dự trữ vật chất.

b) Thực hành động viên công nghiệp quốc phòng

- Quyết định và thông báo quyết định động viên (do Chính phủ quyết định)

- Tổ chức di chuyển địa điểm đối với các doanh nghiệp phải di chuyển.

- Tổ chức bảo đảm vật tư, tài chính.

- Tổ chức thực hiện nhiệm vụ sản xuất, sữa chữa trang thiết bị.

- Giao, nhận sản phẩm động viên.

3. Một số biện pháp chính thực hiện động viên công nghiệp quốc phòng

- Nhà nước, Chính phủ chỉ đạo chặt chẽ các bộ, ngành, địa phương, tổng công ty thực hiện nghiêm pháp lệnh dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc phòng; phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ triển khai thực hiện nhiệm vụ động viên nghiêm túc.

- Các cấp quán triệt sâu sắc cho cán bộ, công nhân viên về pháp lệnh, nghị định, các văn bản hướng dẫn về động viên công nghiệp quốc phòng của nhà nước, Chính phủ.

- Các doanh nghiệp công nghiệp được lựa chọn và giao chỉ tiêu động viên chủ động lập kế hoạch động viên và luôn luôn sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch, chỉ tiêu được giao.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Phân tích làm rõ phương châm xây dựng lực lượng dân quân tự vệ? Tại sao phải coi trọng chất lượng là chính?

2. Anh (chị) hiểu như thế nào về nội dung“dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất công tác”? Qua đó chỉ rõ điểm khác nhau của dân quân tự vệ với những công dân khác?

3. Nêu và phân tích các biện pháp xây dựng lực lượng dân quân tự vệ? Liên hệ trách nhiệm bản thân?

4. Tại sao chúng ta phải xây dựng lực lượng dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc phòng?

5. Hội nhập kinh tế quốc tế tác động như thế nào về công tác động viên công nghiệp quốc phòng

.
Bài 10

XÂY DỰNG PHONG TRÀO

TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC

--------------------

 

I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC

1. Quan điểm về quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc

a) Một số quan điểm về quần chúng nhân dân

- Quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo, là nền tảng cho một nước, là gốc rễ của một dân tộc, là động lực chính để thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

- Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định quần chúng nhân dân làm nên lịch sử, sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ rõ: cách mạng là của dân, do dân và vì dân; “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân”; “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”; “nhân dân giúp ta nhiều thì thành công nhiều, giúp ta ít thì thành công ít, giúp ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”.

b) Vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh tổ quốc

- Có khả năng phát hiện, quản lý, giáo dục, cải tạo các loại tội phạm để thu hẹp dần đối tượng phạm tội.

- Người dân có ý thức tự giác, có tinh thần làm chủ xây dựng cuộc sống mới thì kẻ thù và bọn tội phạm không thể lợi dụng để phá hoại.

- Lực lượng công an có hạn, không thể dựa vào chuyên môn mà phải cần đến tai mắt của nhân dân.

2. Nhận thức về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

a) Khái niệm

Là một hình thức hoạt động tự giác, có tổ chức của đông đảo nhân dân lao động tham gia phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống các loại tội phạm nhằm bảo vệ an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài sản Nhà nước và tính mạng, tài sản của nhân dân.

b) Vị trí, tác dụng của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

- Luôn giữ vị trí chiến lược quan trọng không thể thiếu được trong sự nghiệp cách mạng; là một trong những biện pháp cơ bản của lực lượng công an nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

- Là một bộ phận gắn bó khăng khít, chặt chẽ với các phong trào, hành động cách mạng khác của Đảng, Nhà nước ở địa phương, đơn vị.

- Là hình thức cơ bản để tập hợp quần chúng phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc.

c) Mục đích của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

Huy động sức mạnh của nhân dân để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh với các loại tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

d) Đặc điểm của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

- Đối tượng tham gia phong trào đa dạng, liên quan đến mọi người, mọi tầng lớp của xã hội.

- Nội dung, hình thức, phương pháp xây dựng phong trào ở các địa bàn, lĩnh vực khác nhau có sự khác nhau.

- Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc gắn liền với các cuộc vận động khác của Đảng và Nhà nước, gắn liền với việc thực hiện các chính sách ở địa phương.

II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC

1. Nội dung cơ bản của công tác xây dựng phong trào

a) Giáo dục, nâng cao cảnh giác cách mạng, phát huy truyền thống yêu nước của nhân dân tham gia phòng ngừa đấu tranh chống mọi âm mưu hoạt động của các thế lực thù địch trong và ngoài nước

- Chống chiến tranh tâm lý phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch

- Bảo vệ an ninh kinh tế, an ninh xã hội, bảo vệ bí mật quốc gia

- Chống địch lợi dụng dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để phá hoại

- Giữ vững khối đoàn kết toàn dân, ổn định chính trị, xã hội, xây dựng cơ sở vững mạnh

b) Vận động toàn dân tích cực tham gia chương trình quốc gia phòng chống tội phạm

- Vận động nhân dân tham gia phát hiện, tố giác, đấu tranh chống các loại tội phạm

- Vận động nhân dân tham gia quản lý, giáo dục, cảm hóa những người phạm tội

- Vận động nhân dân chấp hành pháp luật và tham gia bảo vệ an ninh, trật tự

- Hướng dẫn và vận động nhân dân bài trừ tệ nạn xã hội

- Xây dựng cơ quan, đơn vị, khu dân cư và từng gia đình an toàn, đoàn kết, xây dựng nếp sống văn hóa, giữ vững đạo đức, thuần phong mỹ tục, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

c) Xây dựng và mở rộng liên kết phối hợp chặt chẽ với các ngành, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị xã hội trong các phong trào của địa phương

- Xây dưng và thực hiện có hiệu quả các nghị quyết liên tịch, thông tư liên ngành, các quy chế phối hợp hoạt động giữa công an với các tổ chức đoàn thể.

- Đề xuất lồng ghép nội dung, yêu cầu của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương.

d) Tham gia xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng tại cơ sở vững mạnh

- Thông qua phong trào để rèn luyện, thử thách xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức

- Thông qua phong trào để đóng góp ý kiến cho Đảng, Nhà nước nâng cao chất lượng và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng ngày càng vững mạnh.

2. Phương pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

a) Nắm tình hình và xây dựng kế hoạch

- Nắm tình hình

- Xây dựng kế hoạch phát động phong trào

b) Tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân

- Tuyên truyền, giáo dục làm cho nhân dân nâng cao nhận thức về chính trị, tinh thần cảnh giác cách mạng, vai trò trách nhiệm, quyền lợi để tự giác tham gia tích cực.

- Hướng dẫn nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự

c) Phối hợp chặt chẽ các lực lượng, các ngành, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội ở địa phương để tổ chức vận động toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự.

- Phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trên địa bàn như: các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để xây dựng các hình thức tổ chức quần chúng tự quản.

- Phối hợp với các lực lượng để tuyên truyền, vận động, giáo dục, hướng dẫn giác ngộ quần chúng nhân dân.

- Phối hợp với các cơ quan, đơn vị, tổ chức đoàn thể trong việc chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện.

d) Xây dựng các tổ chức, lực lượng quần chúng nòng cốt làm hạt nhân để xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

- Các tổ chức quần chúng nòng cốt gồm:

+ Tổ chức có chức năng tư vấn: Hội đồng an ninh trật tự ở cơ sở

+ Tổ chức có chức năng quản lý điều hành: Ban an ninh trật tự; ban bảo vệ dân phố.

+ Tổ chức có chức năng thực hành: Tổ an ninh nhân dân, Tổ an ninh công nhân, Đội dân phòng, Đội thanh niên xung kích an ninh, Đội thanh niên cờ đỏ, Đội thiếu niên sao đỏ.

- Nội dung, yêu cầu xây dựng các tổ chức quần chúng nòng cốt

+ Lựa chọn những người có đủ tiêu chuẩn, uy tín với nhân dân, có điều kiện đảm nhiệm các mặt công tác,

+ Bồi dưỡng, hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, lề lối và mối quan hệ làm việc.

+ Có kế hoạch bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ, hướng dẫn công tác vận động quần chúng ở địa bàn dân cư.

+ Sâu sát nắm vững hoạt động của đội ngũ cán bộ cơ sở, kịp thời động viên, tạo điều kiện để cán bộ yên tâm công tác.

- Phương pháp xây dựng các tổ chức quần chúng nòng cốt

+ Xác định hình thức tổ chức quần chúng cần xây dựng cho phù hợp với địa bàn.

+ Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức quần chúng được xây dựng.

+ Đề xuất cấp ủy, chính quyền ra quyết định thành lập tổ chức quần chúng.

e) Xây dựng điển hình và nhân điển hình tiên tiến

- Xây dựng những cá nhân, đơn vị, cơ sở đạt được thành tích xuất sắc, nổi trội, có đặc thù chung để phổ biến cho các cá nhân, tổ chức, cơ sở khác học tập, noi theo.

- Nhân điển hình tiên tiến là tổ chức học tập, phát triển những nhân tố tích cực của phong trào thành điển hình phổ biến rộng khắp. Cách làm như sau:

+ Lựa chọn điển hình tiên tiến

+ Tổ chức rút kinh nghiệm, đánh giá kết quả, rút ra những bài học để phổ biến.

+ Phổ biến kinh nghiệm điển hình tiên tiến: mở hội nghị, trên phương tiện thông tin tuyên truyền.

f) Lồng ghép nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các phong trào khác của nhà trường, địa phương

- Có kế hoach, chủ động kết hợp với nhà trường, đoàn thanh niên để đưa nội dung cần thiết phù hợp với từng phong trào, từng thời điểm, xây dựng các tiêu chí để đánh giá kết quả thực hiện.

- Nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được kết hợp với các phong trào khác như:

+ Lồng ghép trong phong trào đền ơn đáp nghĩa; chăm sóc người có công với nước; nội dung là bảo vệ tài sản, bảo vệ tính mạng và sức khỏe của công dân.

+ Kết hợp đưa nội dung giáo dục những người cần phải giáo dục tại địa phương là một nội dung của phong trào xây dựng làng văn hóa, khu phố văn hóa.

+ Lồng ghép phong trào chấp hành Luật Giao thông trong phong trào sinh viên thanh lịch.

+ Lồng ghép các nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh vào các phong trào khác của Đoàn thanh niên và các phong trào sinh viên như: “Phòng ngừa tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh, thiếu niên”; phong trào “phòng chống ma túy trong học đường”; phong trào ngày hè xanh, phong trào đảm bảo vệ sinh môi trường…

III. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC THAM GIA XÂY DỰNG PHONG TRÀO BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC

1. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ về trách nhiệm công dân đối với công cuộc bảo vệ an ninh, trật tự của Tổ quốc. Đây là một nhiệm vụ quan trọng để giữ gìn cuộc sống bình yên cho nhân dân và làm cơ sở nền tảng cho sự phát triển đất nước

- Nhận thức được sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc là trách nhiệm của mọi công dân trong đó lực lượng công an làm nòng cốt; là cuộc đấu tranh gay go, phức tạp, lâu dài và cần phải huy động sức mạnh của toàn xã hội trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa.

- Chăm chỉ học tập và rèn luyện; gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước và những quy định của nhà trường, địa phương. Phát hiện và đấu tranh với những hiện tương, hành vi tiêu cực ảnh hưởng đến an ninh, trật tự ở nhà trường và địa phương.

2. Tự giác chấp hành các quy định về bảo đảm an ninh trật tự của nhà trường và của địa phương nơi cư trú

- Tích cực tham gia vào các hoạt động cùa nhà trường, đoàn thanh niên hoặc của địa phương tổ chức.

- Không xem, đọc, lưu truyền các văn hóa phẩm độc hại; không nghe, không bình luận các luận điểm tuyên truyền xuyên tạc nói xấu Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch.

- Không tự ý thành lập và tham gia các tổ chức chính trị, các tổ chức khác trái pháp luật.

- Phát hiện và đề nghị với nhà trường, cơ quan chính quyền các hành vi tệ nạn xã hội, các hoạt động xâm hại đến an ninh, trật tự.

- Gương mẫu chấp hành pháp luật Nhà nước và các quy định về lĩnh vực an ninh, trật tự và các quy định khác.

3. Tích cực tham gia các phong trào bảo vệ an ninh, trật tự của địa phương

- Sự đóng góp chung của tất cả mọi thành viên trong cộng đồng sẽ tạo nên sức mạnh của phong trào toàn dân ở từng cụm dân cư, từng phường, xã, khu vực... hoạt động này phải trở thành ý thức tự giác của mổi người dân, trong sinh viên có vai trò quan trọng.

- Sinh viên phải tích cực tham gia các phong trào bảo vệ an ninh trật tự ở địa phương. Thông qua các hoạt động của Đoàn thanh niên, các hoạt động khác của nhà trường để lồng ghép các nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

 4. Luôn luôn nêu cao ý thức cảnh giác, tích cực tham gia hoạt động phòng chống tội phạm ở địa phương, phát hiện những hiện tượng tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong nhà trường và nơi cư trú, kịp thời cung cấp cho cơ quan công an để có biện pháp ngăn chặn và giải quyết

Những hành vi vi phạm pháp luật hiện nay thường xảy ra ở khu dân cư:

- Tuyên truyền, phát tán các tài liệu phản động, văn hóa phẩm đồi trụy…

- Đánh nhau, gây rối trật tự công cộng.

- Mang theo chất cháy, chất nổ, chất độc, vũ khí thô sơ đến trường

- Mua bán, sử dụng ma túy; đua đòi ăn chơi; tụ tập đua xe; đánh bạc

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Phân tích vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh tổ quốc. Liên hệ trách nhiệm bản thân?

2. Tại sao Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc?

3. Phân tích làm rõ vị trí tác dụng của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc. Liên hệ trách nhiệm bản thân?

 

Bài 11

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA

VÀ GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI

--------------------

I. KHÁI NIỆM, TÍNH CHẤT, MỤC TIÊU BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA, GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI

1. Các khái niệm

a) An ninh quốc gia

Là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quôc.

An ninh quốc gia gồm an ninh trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, đối ngoại và an ninh lãnh thổ.

b) Bảo vệ an ninh quốc gia

Là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các âm mưu và hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.

Bảo vệ an ninh quốc gia luôn là vấn đề hệ trọng nhất của mỗi quốc gia bởi nó liên quan trực tiếp đến vận mệnh của mỗi quốc gia, dân tộc. Bảo vệ an ninh quốc gia ở nước ta là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Công an nhân dân và Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ chuyên trách tham mưu, tổ chức và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia.

c) Trật tự, an toàn xã hội

Là trạng thái xã hội bình yên, trong đó mọi người được sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy tắc và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định.

Trật tự, an toàn xã hội là hệ thống các quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi hệ thống các quy phạm pháp luật của Nhà nước, quy phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục trong đời sống cộng đồng của mỗi dân tộc, quốc gia, nhờ đó mọi công dân được sống, lao động yên ổn, có tổ chức, có kỷ cương, mọi quyền và lợi ích chính đáng được tôn trọng, bảo vệ.

d) Giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

Là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội. Là nhiệm vụ rất quan trọng và nặng nề của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân hiện nay, trong đó lực lượng Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt, xung kích.

Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội bao gồm:

- Hoạt động phòng ngừa tội phạm nhằm hạn chế, loại trừ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tồn tại của các loại tội phạm và vi phạm pháp luật khác; đây là mặt hoạt động giữ vị trí chiến lược trong bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

- Công tác phát hiện tội phạm và vi phạm pháp luật khác về trật tự, an toàn xã hội là một mặt hoạt động giữ vai trò đặc biệt quan trọng là cơ sở cho việc đấu tranh, xử lý đúng đắn, hiệu quả.

- Ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về trật tự, an toàn xã hội là một nội dung cơ bản trong bảo đảm trật tự, an toàn xã hội nhằm kiềm chế tốc độ gia tăng tội phạm, góp phần giảm trọng án, bảo đảm hoạt động bình thường, yên ổn, hợp pháp của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân.

2. Tính chất, mục tiêu

a) Tính chất

- Tính gay go, quyết liệt, phức tạp, lâu dài

Cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là một bộ phận của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, gắn liền với sự tồn vong của chế độ chính trị, sự hưng thịnh hay suy vong của quốc gia dân tộc.

Nội dung cốt lõi của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội hiện nay ở nước ta là bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng, chế độ nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh các thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá, tiến công ta trên mọi lĩnh vực bằng nhiều âm mưu thủ đoạn nhằm làm ta suy yếu. Tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội đang diễn biến hết sức phức tạp, tiềm ẩn những nguy cơ khó lường. do đó cuộc đấu tranh không thể giành thắng lợi một sớm một chiều, mà diễn ra dai dẳng, phức tạp, lâu dài.

- Tính quần chúng

Sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp cách mạng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

Thực tiễn bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn tự an toàn xã hội cho thấy thắng lợi chỉ có thể giành được khi lực lượng công an biết dựa vào dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, tổ chức động viên được phong trào quần chúng xây dựng được nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân.

- Tính chính trị trực tiếp

Công cuộc bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội gắn liền với sự tồn vong của chế độ chính trị, những lợi ích quan trọng sống còn của cá nhân, xã hội và Nhà nước. Để bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội đòi hỏi phải huy động được sức mạnh của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, điều đó chỉ có thể đạt được khi cuộc đấu tranh bảo đảm an ninh trật tự phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trên thực tế, công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội gắn liền với sự sống còn của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa.

- Tính pháp chế

Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội phải dựa trên cơ sở pháp lý vững chắc là Hiến pháp, các Bộ luật, luật và văn bản pháp luật.

Để nâng cao hiệu quả công cuộc bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự xã hội phục vụ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi khách quan là phải xây dựng hệ thống văn bản pháp luật nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở thể chế hóa một cách đúng đắn chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

- Tính quốc tế

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều vấn đề về an ninh, trật tự không còn là vấn đề riêng của quốc gia mà đòi hỏi phải có sự hợp tác quốc tế cùng giải quyết như tội phạm khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, an ninh tài chính, an ninh môi trường, an ninh lương thực …

Tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là một xu thế tất yếu và là một trong những giải pháp cơ bản trong đấu tranh. Tăng cường hợp tác quốc tế phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh, giữa đối tác và đi tượng theo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng có lợi.

b) Mục tiêu

- Mục tiêu tổng quát

Nghị quyết Trung ương số 40/NQ-TW ngày 08/11/2004 của Bộ Chính trị về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác công an trong tình hình mới nêu rõ: “Huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sức mạnh của toàn dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, trong đó lực lượng công an nhân dân đóng vai trò nòng cốt, xung kích; tiếp tục xây dựng lực lượng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với tổ quốc, với Đảng và gắn bó mật thiết với nhân dân, đấu tranh, ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, ngăn chặn các loại tội pham.”

- Mục tiêu cụ thể

+ Mục tiêu bảo vệ an ninh quốc gia

Về chính trị: Giữ vững ổn định chính trị; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; làm thất bại âm mưu và hoạt động phá hoại nội bộ của các thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.

Về kinh tế - xã hội: Bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa; giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, từng bước giải quyết tình trạng thất nghiệp; đấutranh kiên quyết và có hiệu quả với các loại tội phạm kinh tế; Phát hiện và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động của kẻ địch thông qua kinh tế để chuyển hóa chính trị.

Về tư tưởng - văn hóa: Kiên định con đường chủ nghĩa chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kế thừa và phát huy bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa của nhân loại; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động phá hoại tư tưởng, văn hóa của các thế lực thù địch.

Về đối ngoại: Bảo đảm sự nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước; bảo vệ an toàn quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới; nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, bảo đảm lợi ích dân tộc và chủ quyền quốc gia.

Về quốc phòng và an ninh: Huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia; xây dựng lực lượng công an nhân dân, quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại để đảm đương vai trò nòng cốt trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

+ Mục tiêu giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

Đấu tranh phòng chống tội phạm về trật tự, an toàn xã hội: Ngăn chặn, kiềm chế tốc độ gia tăng của tội phạm. Tập trung phòng chống có hiệu quả với trọng án, tội phạm có tổ chức, tội phạm hoạt động kiểu xã hội đen, tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới, tội phạm xuyên quốc gia.

Đấu tranh phòng chống tội phạm về kinh tế: Tập trung phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm tham nhũng, buôn lậu, tội phạm trên lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán, tội phạm lừa đảo quốc tế. Trong đó chú trọng đấu tranh với loại tội phạm lợi dụng công nghệ cao.

Đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy: Tập trung đấu tranh triệt phá các đường dây mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy; đối tượng có hành vi sản xuất, tàng trữ trái phép chất ma túy; triệt phá các tụ điểm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

Đấu tranh hiệu quả với tội phạm về môi trường: Tập trung đấu tranh, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh về tội phạm môi trường, nhất là hành vi gây ô nhiễm môi trường không khí, nguồn nước, đất đai, làm lây lan dịch bệnh; hành vi hủy hoại, khai thác cạn kiệt tài nguyên, môi trường; hành vi vận chuyển chất thải, chất phóng xạ trái phép qua biên giới vào nước ta.

Đấu tranh đẩy lùi tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma túy, mại dâm, quan liêu, tham nhũng: Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vự bảo đảm trật tự, an toàn công cộng, trật tự, an toàn giao thông, an toàn cháy nổ. Đấu tranh xử lý nghiêm minh những hành vi phạm tội trên lĩnh vực an toàn xã hội; xây dựng nếp sống văn hóa, sống và làm việc theo pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa.

II. NỘI DUNG, NHIỆM VỤ BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA, GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI

1. Nội dung bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

a) Nội dung bảo vệ an ninh quốc gia

- Bảo vệ an ninh chính trị

Bảo vệ an ninh chính trị là nội dung cốt lõi, xuyên suốt trong bảo vệ an ninh quốc gia. Mục tiêu trong bảo vệ an ninh chính trị là phải đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu hoạt động xâm hại đến sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ chính trị.

Nội dung bảo vệ an ninh chính trị bao gồm: Bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước, xã hội; bảo vệ sự ổn định chính trị, sự vững mạnh của chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an toàn các cơ quan thuộc hệ thống chính trị bao gồm các cơ quan Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các lực lượng vũ trang, đoàn thể cách mạng; bảo vệ việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; bảo vệ bí mật nhà nước.

- Bảo vệ an ninh kinh tế

Bảo vệ an ninh kinh tế là bảo vệ sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ an ninh kinh tế giữ vai trò trất quan trọng trong bảo vệ an ninh quốc gia, trực tiếp tác động tới an ninh quốc gia.

Nội dung bảo vệ an ninh kinh tế bao gồm: Bảo vệ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế; bảo vệ sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế, nhất là trong sự phát triển các thành phần kinh tế, các lĩnh vực kinh tế trọng điểm; bảo vệ bí mật nhà nước trên lĩnh vực kinh tế; bảo vệ cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, bảo vệ an toàn nội bộ, đội ngũ cán bộ trong các cơ quan kinh tế; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động phá hoại kinh tế của các hế lực thù địch.

- Bảo vệ an ninh tư tưởng - văn hóa

Bảo vệ an ninh tư tưởng - văn hóa là bảo vệ nền tảng tư tưởng tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển hệ tư tưởng và nền văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nội dung bảo vệ an ninh tư tưởng - văn hóa hiện nay gồm: Bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước sự tấn công của kẻ thù; bảo vệ truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới; đấu tranh có hiệu quả với hoạt động phá hoại tư tưởng - văn hóa; sự xâm nhập tác động của các trào lưu văn hóa phản động, độc hại; hoạt động “xâm lăng văn hóa”; ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống...; bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc, chống chia rẽ dân tộc, khuynh hướng ly khai tự trị, chủ nghĩa cực đoan; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn thông, hoạt động văn hóa, nghệ thuật...

- Bảo vệ an ninh trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh đối ngoại

Là bảo vệ sức mạnh của lực lượng vũ trang và hoạt động quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước. Đây là hai lĩnh vực đặc biệt quan trọng của an ninh quốc gia.

Nội dung gồm bảo vệ an ninh trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh đối ngoại gồm: Bảo vệ bản chất chính trị, bảo đảm lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc với nhân dân của lực lượng vũ trang nhân dân; bảo vệ cơ sở vật chất kỹ thuật của sự nghiệp an ninh, quốc phòng; bảo vệ bí mật nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh đối ngoại; bảo vệ an ninh chính trị nội bộ trong lực lượng vũ trang và cơ quan đối ngoại.

- Bảo vệ an ninh lãnh thổ

 Bảo vệ an ninh lãnh thổ là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam. Trong tình hình hiện nay, bảo vệ an ninh lãnh thổ cần phải chủ động đối phó với những nguy cơ từ bên ngoài âm mưu xâm hại tới chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.

Để bảo vệ an ninh lãnh thổ phải giải quyết tốt các vấn đề sau đây: Có kế hoạch chiến lược trong phát triển kinh tế xã hội gắn với an ninh quốc phòng tại tuyến biên giới, biển, đảo; chủ động giải quyết các tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, không để xẩy ra xung đột biên giới trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền toàn ven lãnh thổ của nhau bằng phương pháp hòa bình, tránh đối đầu.; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội khu vực biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tăng cường tiềm lực, trang bị cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia biên giới; xây dựng quy chế phối hợp hiệp đồng chặt chẽ giữa lực lượng công an, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển trong bảo vệ an ninh biên giới, lãnh thổ.

b) Nội dung giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

- Phòng chống tội phạm

Đấu tranh phòng chống các loại tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân; các tội xâm phạm quyền sở hữu; các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình; các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; các tội xâm phạm môi trường; các tội phạm về ma túy; các tội phạm an toàn công cộng; các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính; các tội phạm về tham nhũng; các tội phạm khác về chức vụ; các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.

Công tác phòng chống tội phạm phải không ngừng nâng cao hiệu quả phòng ngừa, phát hiên, đấu tranh, đẩy mạnh thực hiện các đề án Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm.

- Giữ gìn trật tự nơi công cộng

Trật tự nơi cộng cộng là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi công cộng mà mọi người phải tuân theo.

Trật tự công cộng là một mặt của trật tự, an toàn xã hội bao gồm những quy định chung về trật tự, vệ sinh, văn hóa, sự tuân thủ những quy định của pháp luật và phong tục tập quán sinh hoạt được mọi người thừa nhận.

Giữ gìn trật tự nơi công cộng là giữ gìn trật tự, yên tĩnh chung, giữ gìn vệ sinh chung, duy trì nếp sống văn minh ở những nơi công cộng, bảo đảm sự tôn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi của mọi người.

Để bảo trật tự nơi công cộng phải dựa trên cơ sở nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục công dân tự giác chấp hành các quy định của Nhà nước, của tập thể, của cơ quan, tổ chức và khu dân cư. Mặt khác phải nâng cao hiệu lực quản lý hành chính của Nhà nước về trật tự công cộng.

- Phòng ngừa tai nạn

Tai nạn là những việc rủi ro, bất ngờ xảy ra gây thiệt hại lớn cho con người, như tai nạn giao thông, tai nạn lao động, thiên tai...Phòng ngừa tai nạn giữ vai trò quyết định trong việc giảm thiểu thiệt hại do tai nạn gây ra.

Để phòng ngừa tai nạn hiệu quả cần phải hoàn thiện các quy định về an toàn, nhất là an toàn giao thông, an toàn cháy, nổ, an toàn lao độngtăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để mọi người, cơ quan, tổ chức nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về an toàn. Mặt khác Nhà nước cần có chiến lược phòng ngừa tai nạn, nhất là đầu tư kết cấu hạ tầng, xây dựng hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến phòng ngừa tai nạn, đồng thời xử lý nghiêm những hành vi vi phạm về an toàn giao thông, an toàn lao động, an toàn cháy nổ...

- Phòng chống tệ nạn xã hội

Tệ nạn xã hội là những hiện tượng xã hội tiêu cực có tính phổ biến, biểu hiện bằng những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức và gây hậu quả nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng. Tệ nạn xã hội hiện nay đang là vấn nạn nổi cộm, nhất là tệ nạn mại dâm, ma túy, cờ bạc, mê tín dị đoan.

Tệ nạn xã hội là biểu hiện cụ thể của lối sống thực dụng, coi thường chuẩn mực đạo đức, xã hội và pháp luật; làm xói mòn giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mĩ tục của dân tộc; phá vỡ tình cảm, hạnh phúc gia đình; phá hoại nhân cách, phẩm giá con người; ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, năng suất lao động, băng hoại giống nòi dân tộc... Tệ nạn xã hội thường có quan hệ chặt chẽ với tội phạm hình sự, các hiện tượng tiêu cực xã hội khác.

Phòng chống tệ nạn xã hội là nhiệm vụ của toàn xã hội, phải được tiến hành thường xuyên, liên tục bằng một hệ thống biện pháp tuyên truyền, giáo dục, hành chính, kinh tế…và được thực thi đồng bộ với sự tham gia của mọi cấp, mọi ngành, của cả cộng đồng, trong đó lực lượng Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt.

- Bảo vệ môi trường

Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, dân tộc và nhân loại.

Bảo vệ môi trường là thực hiện những biện pháp giữ cho môi trường trong sạch, sử dụng và phục hồi một cách hợp lý sinh giới (vi sinh vật, thực vật, động vật), môi sinh (đất đai, nước, không khí), đảm bảo sự cân bằng sinh thái, tạo ra một không gian tối ưu cho cuộc sống con người.

2. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

- Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngăn chặn, đẩy lùi âm mưu, hoạt động diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, đẩy lùi nguy cơ can thiệp quân sự và xung đột vũ trang, các hành vi xâm hại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

- Bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ Đảng, bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, giữ vững ổn định chính trị xã hội.

- Bảo vệ an ninh trên các lĩnh vực tư tưởng và văn hóa, kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các lợi ích khác của quốc gia.

- Bảo vệ bí mật Nhà nước, các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia, phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn đấu tranh làm thất bại và loại trừ các hoạt động xâm phạm, đe dọa an ninh quốc gia.

- Tiếp tục thực hiện chương trình quốc gia phòng chống tội phạm. Đấu tranh có hiệu quả với tội phạm tham nhũng, tội phạm ma túy, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có tổ chức, tội phạm hoạt động theo kiểu xã hội đen, tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em.

- Tăng cường quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, ngăn ngừa và làm giảm tai nạn, tệ nạn xã hội, bảo đảm trật tự kỷ cương.

III. YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ ĐỐI TƯỢNG ĐẤU TRANH BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA, GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI

1. Yếu tố tác động đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội

a) Yếu tố bên ngoài

Thế giới và khu vục đang có những biến động sâu sắc, toàn diện, phức tạp, khó lường sẽ tác động đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của nước ta, tác động đó vừa có mặt thuận lợi vừa đặt ra những thách thức gay gắt, các nước lớn đã và đang điều chỉnh chính sách đối với Việt Nam.

Những yếu tố bên ngoài tác động đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của nước ta là:

- Sự sụp đổ mô hình chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu thay đổi hẳn cục diện thế giới có lợi cho chủ nghĩa đế quốc. Thực tế đó tác động mạnh vào tư tưởng, lòng tin của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm giảm sút niềm tin đối với chế độ, với vai trò lãnh đạo của Đảng Công sản.

- Âm mưu của các thế lực thù địch và phản động bên ngoài không hề thay đổi đối với nước ta, đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình với các thủ đoạn hoạt động ráo riết, tinh vi, xảo quyệt hơn nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tăng cường xâm nhập sâu vào nội bộ, nội địa ta; dùng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”, “tự do tôn giáo” để can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam, gây mất ổn định về chính trị, tiến tới bạo loạn lật đổ.

- Sự xuất hiện và gia tăng hoạt động của đối tượng theo chủ nghĩa khủng bố quốc tế đối với Việt Nam chúng có thể nhằm vào các mục tiêu của Mỹ, các nước phương Tây và đồng minh của Mỹ nằm trên lãnh thổ Việt Nam; các sự kiện quốc tế mà Việt Nam đăng cai.

- Sự phát triển nhanh của khoa học, công nghệ và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế tác động cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực là xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ góp phần tạo tiềm lực mới về khoa học, công nghệ, thị trường… sẽ gia tăng thế và lực mới cho nước ta, thuận lợi trong hợp tác quốc tế đấu tranh phòng chống tội pham. Mặt tiêu cực là, đưa đến cho chúng ta nhiều thách thức trong công cuộc bảo đảm an ninh trật tự đó là sự xâm nhập của tội phạm, văn hóa - tư tưởng độc hại, tội phạm công nghệ cao…

- Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp ảnh hưởng đến an ninh trật tự của Việt Nam. Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực năng động về kinh tế, có vị trí chính trị quan trọng thu hút sự quan tâm của các nước lớn nên sẽ tích tụ nhiều mâu thuẫn, nhiều mối quan hệ phức tạp giữa các nước lớn cũng như với các nước trong khu vực. Việc tranh chấp chủ quyền biển, đảo, biên giới giữa các nước và chính sách chạy đua vũ trang đang tiềm ẩn các nhân tố có thể gây xung đột nhất là ở Biển Đông.

b) Yếu tố bên trong

Sự tác động của yếu tố bên trong cũng diễn ra theo cả hai hướng, vừa tạo ra thuận lợi, vừa gây ra khó khăn, thách thức đối với công cuộc bảo đảm an ninh, trật tự, cụ thể là:

- Đảng Cộng sản Việt Nam dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành; có khối đại đoàn kết vững chắc; Hệ thống pháp luật được bổ sung, xây dựng, hoàn thiện phù hơp với sự phát triển của đất nước.

- Thành tựu của sự nghiệp đổi mới, đạt được nhiều kết quả to lớn đưa nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế, xã hội, đời sống nhân dân được cải thiện; chính trị ổn định, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; quan hệ quốc tế mở rộng, vị thế Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

- Tuy vậy vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập tác động tiêu cực đến bảo dảm an ninh, trật tự, cụ thể:

Nền kinh tế vẫn trong tình trạng phát triển chậm; sức cạnh tranh kém, tiềm lực kinh tế yếu, công nghệ, kỹ thuật còn lạc hậu; năng lực quản lý, điều hành kinh tế yếu kém; đặc biệt là sự bất cập lớn của tiến trình cải cách trong nước so với yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang tạo ra những thách thức lớn cả về kinh tế lẫn an ninh trật tự.

Văn hóa xã hội còn nhiều bức xúc, thất nghiệp, tiêu cực xã hội diễn ra nghiêm trọng, chậm được giải quyết. Tệ quan liêu, tham nhũng chưa được đẩy lùi; đối tượng bất mãn, chống đối trong nước nhất là số cơ hội chính trị gia tăng. Mâu thuẫn nội bộ nhân dân diễn ra phổ biến, phức tạp, phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng.

Tội phạm hình sự diễn biến phức tạp, nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm tham nhũng, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm ma túy, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Nhiều tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là tệ nạn ma túy, mại dâm, tệ quan liêu, tham nhũng gây bất bình trong nhân dân và tác động xấu tới lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ.

2. Đối tượng đấu tranh trong bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

Đối tượng đấu tranh là bất kỳ thế lực nào chống lại mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc xác định đối tượng đấu tranh phải trên tinh thần quan điểm thêm bạn, bớt thù. Đối tượng đấu tranh gồm đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia và đối tượng xâm phạm trật tự, an toàn xã hội.

a) Đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia

- Cơ quan đặc biệt nước ngoài có âm mưu, hoạt động chống Việt Nam. Đây là đối tượng nguy hiểm nhất vì nó luôn gắn với âm mưu chính trị, kinh tế, tư tưởng-văn hóa, ngoại giao, quốc phòng, an ninh. Trong các phương thức hoạt động của cơ quan đặc biệt, nguy hiểm nhất là gián điệp.

- Gián điệp là người Việt Nam hay ngước ngoài hoạt động cá nhân hay có tổ chức, chịu sự chỉ huy, chỉ đạo của nước ngoài để tiến hành hoạt động điều tra thu thập tin tức tình báo, xây dựng cơ sở bí mật, phá hoại nhằm chống lại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Phản động là những cá nhân hay tổ chức có âm mưu và hoạt động chống lại Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, nhưng chưa chịu sự chỉ huy, chỉ đạo của nước ngoài. Tổ chức, cá nhân phản động ở nước hiện nay gồm có: phản động lợi dụng dân tộc thiểu số; phản động lợi dụng tôn giáo; phản động trong số ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái phản động của chế độ cũ; bọn phản động mới, số cơ hội chính trị.

- Tội phạm khủng bố quốc tế đang là một nguy cơ nổi lên đối với an ninh quốc gia Việt Nam trong bối cảnh tình hình phức tạp của thế giới và khu vực.

b) Đối tượng xâm phạm về trật tự, an toàn xã hội

Là những người có hành vi phạm tội gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân, đến tính mạng sức khỏe và danh dự phẩm giá của con người, đến trật tự, an toàn xã hội nhưng không có mục đích chống lại Đãng, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối tượng đấu tranh trong giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là:

- Tội phạm xâm phạm trật tự xã hội: Đối tượng là tội phạm có tổ chức; tội phạm sử dụng vũ khí nóng; tội phạm hoạt động theo kiểu xã hội đen; tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em; tội phạm cờ bạc quốc tế…

- Tội phạm kinh tế: Đối tượng cần tập trung đấu tranh là tội phạm tham nhũng trên lĩnh vực kinh tế nhất là trong xây dựng cơ bản, tài chính, ngân hàng, thương mại, đầu tư nước ngoài; tội phạm buôn lậu; đầu cơ; tội phạm sử dụng công nghệ cao; tội phạm thị trường chứng khoán; rửa tiền…

- Tội phạm về ma túy: Các tổ chức, ổ, nhóm buôn bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép ma túy hoạt động trong nước và hoạt động xuyên quốc gia.

- Tội phạm môi trường: Đối tượng chủ yếu là các tội phạm hủy hoại môi trường sinh thái, khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên, buôn bán tài nguyên ra nước ngoài; vận chuyển, kinh doanh trái phép chất thải, chất phóng xạ…

Khi nghiên cứu đối tượng đấu tranh cần thấy mối quan hệ có tính quy luật giữa đối tượng bên ngoài và đối tượng bên trong, giữa bọn gián điệp và bọn phản động trong nước, mối quan hệ giữa đối tượng chính trị và đối tượng hình sự. Xác định đối tượng đấu tranh phải có quan điểm toàn diện, chú trọng tìm ra mối quan hệ trực tiếp, gián tiếp có tính quy luật giữa các loại đối tượng khác nhau, trong các thời kỳ khác nhau. Trong đấu tranh với đối tượng hiện tại, đồng thời phải dự báo đối tượng trong tương lai để không bị động.

IV. QUAN ĐIỂM, TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA, GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI

1. Quan điểm

- Công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; các cấp ủy Đảng phải thường xuyên đề cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh trật tự.

- Công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội phải bám sát và phục vụ đắc lực việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước.

- Trong đấu tranh chống các thế lực thù địch, các loại tội phạm phải chủ động tiến công, tích cực phòng ngừa, không để bị động, bất ngờ, lấy giữ vững bên trong là chính.

- Trong xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia phải giữ vững nguyên tắc đồng thời có sách lược mềm dẻo, linh hoạt, khôn khéo, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ quốc tế và các tầng lớp quần chúng nhân dân

- Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của khối đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh của dân tộc và sức mạnh thời đại dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước, công an nhân dân làm tham mưu và đóng vai trò nòng cốt.

2. Tư tưởng chỉ đạo

- Quán triệt tinh thần cách mạng tiến công, kết hợp chặt chẽ giữa chủ động tiến công với chủ động phòng ngừa, lấy chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính.

- Phải chú trọng hai nhiệm vụ “xây” và “chống”, trong đó lấy xây dựng là chính; phát hiện và khắc phục kịp thời mọi sơ hở, không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá ta.

- Giữ vững nguyên tắc chiến lược, có sách lược mềm dẻo, linh hoạt; xử lý các vấn đề có liên quan đến an ninh quốc gia một cách cương quyết, khôn khéo, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi.

- Chủ động phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh vô hiệu hóa hoạt động của địch ngay từ nơi xuất phát, sào huyệt của chúng.

V. LỰC LƯỢNG, NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA, GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI

1. Lực lượng

a) Các cơ quan trong hệ thống chính trị

- Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

- Nhà nước thống nhất quản lý bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

- Tổ chức chính trị - xã hội: tuyên truyền, động viên nhân dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật về bảo vệ an ninh trật tự; giám sát việc thực hiện pháp luật về an ninh trật tự của tổ chức, cá nhân.

b) Quần chúng nhân dân

Quần chúng nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ an ninh trật tự, là lực lượng đông đảo tham gia tích cực vào bảo vệ an ninh trật tự, đó là:

+ Tố cáo hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

+ Phát hiện, kiến nghị với chính quyền hoặc cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia khắc phục sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia.

+ Phát hiện, cung cấp kịp thời cho chính quyền hoặc cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia những thông tin liên quan đến hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.

+ Giúp đỡ, tạo điều kiện cho cơ quan và người có trách nhiệm tiến hành các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh với hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.

c) Công an nhân dân

Lực lượng công an nhân dân có chức năng làm tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; tổ chức, hướng dẫn và là chỗ dựa trực tiếp, thường xuyên cho các ngành, các cấp và quần chúng trong bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu giữa quân đội nhân dân và công an nhân dân trong bảo vệ an ninh trật tự.

2. Nguyên tắc hoạt động

- Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước

- Hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hôi phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.

- Huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tộc, lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia làm nòng cốt.

- Công an nhân dân phải dựa vào nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.

- Chủ động phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.

- Bảo vệ an ninh quốc gia phải kết hợp chặt chẽ với giữ gìn trật, an toàn xã hội

KẾT LUẬN

Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội luôn là vấn đề hệ trọng của đất nước bởi nó liên quan đến vận mệnh của quốc gia, đến mất còn của chế độ chính trị. Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là một nội dung quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; là một bộ phận của cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra gay go, quyết liệt, phức tạp, lâu dài; là nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi công dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nhân dân làm chủ, công an là lực lượng nòng cốt.

Các thế lực thù địch triệt để khai thác những khó khăn, yếu kém của ta để lợi dụng thâm nhập sâu vào nội địa, nội bộ của ta để gây sức ép về chính trị, kinh tế, gây chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước, tạo dựng các tổ chức đối lập nhằm thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập tiến tới bạo loạn chính trị, lật đổ Nhà nước ta.

Sinh viên phải nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, xác định trách nhiệm công dân, nêu cao cảnh giác, không để kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc; tích cực học tập, rèn luyện, đấu tranh với những hành động sai trái, tự giác tham gia bảo vệ ANQG, giữ gìn trật tự ATXH. Nắm vững và chấp hành pháp luật của Nhà nước, các quy định của nhà trường. Phát hiện và đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng đến an ninh trật tự ở địa phương, nhà trường.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Tại sao xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội phải đi đôi với bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội?

2. Bảo vệ an ninh quốc gia có những nội dung gì? Phân tích và lấy thực tế chứng minh làm rõ một nội dung mà anh (chị) tâm đắc nhất?

3. Phân tích làm rõ vị trí, vai trò của các lực lượng trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội ở nước ta hiện nay? Liên hệ trách nhiệm bản thân?

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

-------------

 

1. Chỉ thị 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng và an ninh trong tình hình mới”.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X, XI, XII; Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2015.

3. Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

4. Luật An ninh quốc gia năm 2004; Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Luật Công an nhân dân năm 2005; Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Luật Phòng chống ma túy năm 2003; Luật Phòng chống mại dâm năm 2003; Luật Quốc phòng năm 2005; Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Luật Dân quân tự vệ năm 2019.

5. Pháp lệnh Động viên công nghiệp quốc phòng năm 2003; Nghị định Giáo dục quốc phòng an ninh số 116/2007/NĐ-CP ngày 10/07/2007.

6. Nghị quyết 05, 06 của Chính phủ về Đấu tranh phòng chống tệ nạn mại dâm và tệ nạn ma túy năm 1993.

7. Bộ Quốc phòng, Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 2004.

8. Giáo trình Lịch sử quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội năm 1997.

9. Giáo trình Giáo dục quốc phòng an ninh, Tập 1, Nxb Giáo dục 2008.

10. Giáo trình Giáo dục an ninh-trật tự, Nxb Giáo dục năm 2012.

11. Hỏi đáp về Chủ quyền biển đảo trong luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Nxb Lao động năm 2011.

-------------------------
MỤC LỤC

 

 

Trang

 

Lời nói đầu

1

 

Học phần 1

3

Bài 1:

Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu môn học

5

Bài 2:

Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc

10

Bài 3:

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

20

Bài 4:

Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

26

Bài 5:

Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân

32

Bài 6:

Kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại

40

Bài 7:

Những vấn đề cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam

51

Bài 8:

Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia trong tình hình mới

61

Bài 9:

Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và động viên quốc phòng

71

Bài 10:

Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

80

Bài 11:

Những vấn đề cơ bản về bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội

85

 

Tài liệu tham khảo

97

--------------------